bình luận về nguyễn trãi
2. Thuyết minh về Nguyễn Trãi bài tham khảo số 2. Nguyễn Trãi (1380-1442) là bậc đại anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, là danh nhân văn hóa thế giới nhưng đồng thời cũng là người phải chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 3 của Nguyễn Trãi – Văn mẫu chi tiết; 7 Bài tập yoga giúp nâng cao thị lực cho mắt ít người biết; Bỏ túi ngay 6 trải nghiệm bạn nên thử một lần tại Sapa; Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương đầy đủ
ĐỀ: tỪ vĂn bẢn nƯỚc ĐẠi viỆt ta (trÍch bÌnh ngÔ ĐẠi) cỦa nguyỄn trÃi, hÃy nÊu nhỮng suy nghĨ cỦa em vỀ lÒng yÊu nƯỚc cỦa
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi mẫu 4. Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con
Hướng dẫn làm bài phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo. 1. Phân tích đề; 2. Các luận điểm chính cần triển khai; 3. Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; 4. Sơ đồ tư duy; Bài làm mẫu phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
Câu 1 trang 33 SGK Ngữ văn 10 tập 2: Từ những hiểu biết về tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, hãy nêu các yếu tố cơ bản làm nên sức thuyết phục của một văn bản chính luận. Trả lời:
Lừa Đảo Vay Tiền Online. Nguyễn Trãi là một nhà tư tưỡng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, và còn là nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba - một danh nhân văn hóa thế giới. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử dân tộc và thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông mãi mãi là là kì quan để đời đời kính liệu xem thêm Thuyết minh về Nguyễn TrãiThân thế của tác giả Nguyễn TrãiNguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia tộc nhiều đời là quan võ dưới nhiều triều đại. Dòng họ này có truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết, lập trường thương dân, đứng về phía người thế cô, bị hà hiếp, đấu tranh chống lại cường quyền và bạo lực. Vì thế nhiều lần không tránh khỏi tai họa giáng xuống với nhiều mức độ khác nhau dưới nhiều triều đại. Truyền thống gia đình và sự nghiệp của dòng tộc có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách và tài năng của Nguyễn Trãi sau đời của nhà thơ Nguyễn TrãiSống trong một thời đại đầy biến động, Nguyễn Trãi không tránh khỏi những thay đổi trong cuộc đời. Lên 6 tuổi, mẹ qua đời, Nguyễn Trãi phải về Côn Sơn ở với ông ngoại Trần Nguyên Đán. Năm 1390, ông ngoài qua đời, ông lại theo cha trở về sống ở làng Nhị thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân. Sách vở cổ kim đầu thông hai mươi tuổi năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh và cùng với cha ra làm quan với nhà Hồ. Chưa được bao lâu, năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về nước tìm cách phục thù cứu về Đông Quan, ông sống lẩn khuất trong nhân dân để tránh sự truy bắt của quân Minh, ngày đêm nung nấu ý chí “đền nợ nước, báo thù nhà”. Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách”, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến, đem hết tài năng, ý chí và nguyện vọng phục vụ cho công cuộc kháng chiến vĩ đại. Trải qua biết bao gian khổ, cuối cùng Nguyễn Trãi đã thực hiện được ước mơ cháy bỏng của ông đánh đuổi được giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước năm ông đã thay mặt Lê Lợi viết bản Bình Ngô đại cáo tổng kết chiến thắng oanh liệt của dân tộc. Bài cáo thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân nghĩa của ông, bộc lộ rõ ý chí và nguyện vọng của một con người luôn vì dân vì quan dưới hai triều Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông, ông đã ra sức chèo lái con thuyền của triều đình nhà Lê đi đúng con đường chính đạo mà tinh thần căn bản là thực hành nhân nghĩa để yên dân. Ông đem hết tài năng và sức lực xây dựng triều đình, mở mang đất nước, làm cho xã hội thái bình thịnh trị. Với tính khí cương trực, tư tưởng lấy dân làm gốc, vì dân phục vụ ông không khỏi bị bọn quan tham đó kị, ganh ghét, tìm cách hãm hại. Nhiều lần ông bị nghi oan, giáng chức khiến ông vô cùng buồn 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Được tin cậy trở lại, ông hăng hái làm việc đến quên đi bản thân thì lúc ấy lại bất ngờ xảy ra vụ việc vua Lê Thái Tông băng hà tại nhà riêng của ông ở Lệ Chi Viên. Lợi dụng vụ việc, bọn gian thần triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442. Cả nhà Nguyễn Trãi đã bị oan khốc thấu tận trời xanh. Hơn hai mươi năm sau năm1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan. Có thể nói vụ án lệ chi viên là vụ án oan thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến việt nam.* Nhận xét chungNhìn chung, cuộc đời Nguyễn Trãi nổi bậc là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Ở Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. Nguyễn Trai còn là người có nhân cách cao cả, cương trực, sống đầy khát khao, hoài bão thật đáng để cho người đời ngưỡng mộ. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch cũng là một nhà tư tưởng vĩ đại, có tầm nhìn sáng suốt, dũng cảm đưa ra đường lối đổi mới và dũng cảm thực hiện. Tuy có nhiều trở ngại nhưng về cơ bản Nguyễn Trãi cũng đã thực hiện được những gì mình đề ra trong suốt cuộc đời. Thật đáng tiếc, số phận ngắn ngủi cũng đã cắt đứt những khát vọng mà ông mong muốn khi đang ở giai đoạn hăm hở nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi viết nhiều, có cống hiến ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Có thể nói bút lực của oogn phi thường. Tác phẩm của Nguyễn Trãi hầu hết đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi viên. Hiện nay, chỉ còn lại một ít có thể kể tên sauVề văn chính luậnBình Ngô đại cáo là kiệt tác bất hủ của Nguyễn Trãi. Với lời văn đầy khí khái, giọng điệu hào hùng, lời lẽ đanh thép, thuyết phục, trâm hùng đã nêu bậc được thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn và hào khí của thời đại. Bình ngô đại cáo xứng đáng là một bản thiên cổ hùng văn còn lưu truyền đến muôn trung từ mệnh tập là tập văn mang tính luận chiến, nhằm cổ vũ tinh thần quân sĩ và làm nao núng ý chí quân giặc, vừa mang tính thuyết phục, giảng giải cho quân địch thấy rõ lẽ tất yếu phải rút quân và thừa nhận chủ quyền độc lập của Đại Việt. Lập luận sắc bén, văn phong sáng gọn, gợi cảm, có lí, có tình. Tập văn thể hiện sâu sắc tài năng hùng biện và phán đoán tâm lí kẻ địch tài ình của Nguyễn Trãi. Vận dụng chiêu pháp công tâm làm cho quân địch tự tan rã là kế sách tài tình mà không phải ai cũng làm thơ caTập thơ Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán. ở thơ chữ Hán, Nguyễn trãi không chú trọng đến niêm luật mà phóng khoáng, tự do để biểu đặt được cái hồn của sự vật. Nắm bắt thần thái, trả cảnh vật về với tự nhiên là bút pháp nổi bậc trong văn thơ Nguyễn trãi. Thơ ông tự nhiên, chan hòa sự sống, mang phong thái điềm đạm của một bậc đại thơ Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ Nôm. Đây là tập thơ Nôm đầu tiên và cổ xưa nhất của nước ta còn cho đến ngày nay. Quốc âm thi tập phản ánh sâu sắc quá trình phát triển của chữ Nôm thế kỉ XV. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi đánh một móc son rực rỡ trong tiến trình phát triển và hoàn thiện chữ Nôm ở nước khảo cứu lịch sửBộ lược sử Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng – lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái nghiên cứu địa lýBộ khảo cứu Dư địa chí là bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam, đặt nền móng căn bản, trở thành nguồn tư liệu quý về địa lí nước Đại việt. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày lạiTrong lịch sử dân tộc, thật hiếm có nhân vật nào toàn tài như Nguyễn Trãi, một con người đã có cống hiến rất lớn trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước ấy đã phải gánh chịu tai họa thảm khốc nhất lịch sử. Dù các tác phẩm để lại không còn đầy đủ nhưng cũng đủ để khẳng định tài năng lỗi lạc của ông. Bởi thế, ca ngợi Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông đã viết “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” Tâm Ức Trai sáng tựa sao khuê.Tham khảo thêm Dàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi
Mục lục Nguồn gốc và giáo dục Sự nghiệp Làm quan thời nhà Hồ Mười năm phiêu dạt Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Yết kiến ở Lỗi Giang Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn Phong thưởng Văn thần triều Lê Triều vua Lê Thái Tổ Triều vua Lê Thái Tông Vụ án Lệ Chi Viên Được phục hồi danh dự Gia đình Vợ Con Tư tưởng Nguyễn Trãi Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi Sự nghiệp văn chương Văn chính luận Lịch sử Địa lý Thơ phú Nhận định Về văn chương Về nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ ca Tuyên truyền và Tưởng niệm Hình ảnh trong văn hóa Tên đường phố Chú giải Chú thích và tham khảo Ghi chú Thư mục Nguyễn Trãi Sinh 1380 Thăng Long, Đại Việt Mất 19 tháng 9, 14423 Bút danh Ức Trai Công việc Nhà chính trị, Nhà thơ, Nhà địa lý học, Nhà ngoại giao Quốc gia Việt Nam Dân tộc Kinh Quốc tịch Việt Nam Giai đoạn sáng tác Văn học trung đại Việt Nam Thể loại Thơ, Cáo, Chiếu, Biểu, Tấu Tác phẩm nổi bật Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí Vợ/chồng 5 vợ Con cái 7 con trai Nguyễn Trãi chữ Hán 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442, hiệu là Ức Trai 抑齋, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê sơ Việt Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ, nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh đầu hàng rồi bị bắt giải về Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo. Đến ải Nam Quan,cha ông khuyên ông nên quay về để trả nợ nước,báo thù nhà, ông làm theo. Sau khi nước Đại Ngu rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam. Mục lục 1 Nguồn gốc và giáo dục 2 Sự nghiệp Làm quan thời nhà Hồ Mười năm phiêu dạt Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Yết kiến ở Lỗi Giang Tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn Phong thưởng Văn thần triều Lê Triều vua Lê Thái Tổ Triều vua Lê Thái Tông Vụ án Lệ Chi Viên Được phục hồi danh dự 3 Gia đình Vợ Con 4 Tư tưởng Nguyễn Trãi Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi 5 Sự nghiệp văn chương Văn chính luận Lịch sử Địa lý Thơ phú 6 Nhận định Về văn chương Về nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ ca 7 Tuyên truyền và Tưởng niệm 8 Hình ảnh trong văn hóa 9 Tên đường phố 10 Chú giải 11 Chú thích và tham khảo Ghi chú Thư mục 12 Liên kết ngoài Nguồn gốc và giáo dụcNguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ; con Nguyễn Phi Khanh, tiến sĩ cuối đời Trần, cháu ngoại Trần Nguyên Đán1 .Phan Huy Chú nhận xét'Ông Nguyễn Trãi tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả.'4 Dưới thời nhà Trần, cha ông là Nguyễn Phi Khanh hay Nguyễn Ứng Long được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy con gái, tên là Thái, làm Thái có thai rồi bỏ trốn. Trần Nguyên Đán cho gọi Ứng Long về gả con gái cho, sinh ra Nguyễn Trãi. Sau đó Ứng Long thi đỗ nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho rằng "Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng.'' 5 Khi nhà Hồ thay nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh được cất nhắc sử dụng, đổi tên là Phi Khanh Phi Khanh sinh ra Trãi, cũng đỗ thái học sinh.Theo nghiên cứu sử gia hiện đại Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng6 Mẹ ông mất sớm, anh em Nguyễn Trãi ở ông ngoại là Trần Nguyên Đán, đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các . Nguyễn Trãi còn ít tuổi rất ham học, điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạcCố viên loạn hậu hữu tiên lưLục tuế nhi đồng phả ái thưNghĩa là Vườn xưa sau loạn còn nhà cũSáu tuổi con thơ rất thích sách Sự nghiệp Làm quan thời nhà HồNăm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành lập. Ông ngoại của Nguyễn Trãi- Trần Nguyên Đán là một tôn thất, lại là đại thần triều Trần, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý Ly. Về sau con cháu Trần Nguyên Đán đều được Hồ Quý Ly bảo toàn. 8 Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư9 , được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám10 . Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhiều người kinh lộ không ủng hộ nhà Hồ nên hầu hết đầu hàng quân Minh. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng một số quan lại nhà Hồ đã đầu hàng trước đó. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không chép gì về Nguyễn Trãi ở thời gian Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau cuộc Chiến tranh Minh - Đại Ngu, Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng4 . Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù Mười năm phiêu dạtCuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Lê Lợi ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể 13 . Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển mười năm phiêu dạt lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối14 . Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi . Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa. Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? 12 . Theo ý kiến khác của Trần Huy Liệu dựa theo các bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi đã sang Trung Quốc ở thời gian này, dựa vào các địa điểm trong thơ ông viết12 , dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam[a] dạ bạc Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam, Ngô Châu[b], Giang Tây, Thiều Châu Văn Hiến miếu[c]Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu, Đồ trung ký hữu Trên đường gửi bạn... Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa15 . Theo Nguyễn Lương BíchNhững tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm . Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Yết kiến ở Lỗi GiangCác tài liệu, Lịch triều hiến chương loại chí, Ức Trai thi tập Bài thơ Minh Lương của Lê Thánh Tông, Chế văn của vua Tương Dực Đế, Kiến văn tiểu lục, Việt sử thông giám cương mục, Sơn Nam lịch triều đăng khoa khảo và Lịch triều đăng khoa bi khảo chép rằng Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi tại địa điểm Lỗi Giang, nhưng không ghi năm . Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử, Nguyễn Trãi gia nhập lực lượng của Lê Lợi trước thời điểm khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ đầu năm 141818 Theo Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược thì Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420. Việt Nam sử lược, chương XIV Mười năm đánh quân Tàu, đoạn số 6 viết "Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi, vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay,dùng ông ấylàm tham mưu". Trước đó, đoạn số 5 viết rằng " Năm Canh Tí 1420Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi...Vương lại đem quân đóng ở Lỗi Giang" Theo Hoàng Xuân Hãn, Đặng Nghiêm Vạn, Phan Huy Lê cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhai vào năm 141619 . Theo Trần Huy Liệu, Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn vào năm 142020 hoặc 1421 hay sau đó một chút14 21 . Theo Nguyễn Diên Niên căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, những tư liệu được chép cùng thời thì thời kỳ Lê Lợi hoạt động buổi đầu ở vùng Thượng du Thanh Hóa 1418-1424 chưa có sự tham gia của Nguyễn Trãi. Các sách trên đều có đoạn rằngNguyên trước Nhà vua kinh-doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê văn Linh, Lê quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai trăm thiết-kỵ, hai trăm nghĩa-sĩ, hai trăm dũng-sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi.. Địa điểm Lỗi Giang mà Nguyễn Trãi ra mắt là năm . Việc ra mắt Lê Lợi, các sách sử cùng thời đại đó như Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục không chép; thời hiện đại một số nhà nghiên cứu đã trích dẫn từ sách Toàn việt thi lục của Lê Quý Đôn, từ phần họ gọi là Tiểu chú về Nguyễn Trãi, trích rằng Nguyễn Trãi trao cho Lê Lợi Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh, sách nay không mà chủ yếu là tâm công, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng24 Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện23 , ngày đêm dự bàn việc quân. Tham gia Khởi nghĩa Lam SơnCác sử gia Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bích đã dùng cuốn Tang thương ngẫu lục, cuốn sách mang tính truyền kỳ trong dân gian để nghiên cứu. Sách chép rằng Nguyễn Trãi đề xuất mộtkế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật25 hoặc mỡ20 viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần 黎利為君, 阮廌為臣26 , nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần 黎利為君, 百姓為 臣, nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi25 . Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, từ năm 1418 cho đến năm 1426 sách không chép gì về Nguyễn Trãi, cho đến năm 1426, khi Lê Lợi phát binh ra Đông Quan, Nguyễn Trãi mới xuất hiện lần đầu .Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan. Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự, đây là lần xuất hiện đầu tiên của sách Đại Việt sử ký toàn thư về Nguyễn Trãi khi ông tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại29 . Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép nguyên văn như sau “ Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô Khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề, cao bằng tháp Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại ” — Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. Sách Đại Việt thông sử chép nguyên văn như sauPhong cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức “Triều liệt đại phu nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện”. Hoàng đế sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại từng lầu trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở tầng lầu dưới, để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 142731 . Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần32 Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô... mà thôi33 .Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn Tháng 11, năm 1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt Ngày 22, tháng 11, năm 1427 Đinh Mùi, Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử ký Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rằng “ Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra35 36 . ” — Đại Việt sử ký toàn thư Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Lê Lợi không đồng ý, quân Minh rút về nước an toàn. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình Phong thưởngVua Lê Thái Tổ có 2 đợt phong thưởng chính, lần một vào tháng 2, năm Thuận Thiên thứ nhất 1428 cho những Hỏa thủ và quân nhân Thiết đột ở Lũng Nhai, gồm 121 người. Lần 2, vào tháng 5, năm Thuân Thiên thứ 2 1429, ban biển ngạch công thần cho 93 viên. Đợt phong thưởng lần 2 có tên của Nguyễn Vào tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu; tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính. 38 Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, ông được phong tước Quan phục .Phong thưởng có tất cả chín bậc, Thứ nhất Huyện thượng hầu; Thứ hai Á thượng hầu; Thứ ba Hương thượng hầu; Thứ tư Đình thượng hầu; Thứ năm Huyện hầu; Thứ sáu Á hầu; Thứ bảy Quan nội hầu; Thứ tám Quan phục hầu; Thứ chín Trước phục hầu. Nguyễn Trãi ở bậc thứ 8. Văn thần triều Lê Triều vua Lê Thái TổĐầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính họ Lê và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần40 41 42 . Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh43 .Chính sử nhà Lê không nói đến việc Nguyễn Trãi bị bắt và hạ ngục. Trong Tang thương ngẫu lục, Dương Bá Cung cho biết Nguyễn Trãi "từng có việc bị hạ ngục rồi lại được tha". Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có bài "Oan thán" về việc bị hạ ngục cho chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị bắt vào hồi ông năm mươi tuổi tức vào khoảng năm Thuận Thiên thứ hai 1429 năm Lê Thái Tổ bắt Trần Nguyên Hãn. Rất có thể là Nguyễn Trãi bị nghi ngờ có liên quan đến Trần Nguyên Hãn, nên bị bắt, sau lại được thả ra44 .Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có viết rằng "Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính". Câu này cho thấy rằng, trước khi chết, Lê Thái Tổ đã dặn Thái tử Nguyên Long phải đặt Nguyễn Trãi lên một chức vị xứng đáng. Lê Thái Tông đã làm đúng như lời cha .Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi46 . Triều vua Lê Thái TôngNgày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi47 ..48 . Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó49 .Tháng 5, năm 1434 Nguyễn Trãi đang giữ chức Hành khiển, soạn xong tờ tâu để Nguyễn Tông Trụ mang sang đưa lên vua Minh, bị Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ, Học sĩ Lê Cảnh Xước, Đại tư đồ Sát và Đô đốc Phạm Vấn phản đối và trách cứ và đòi sửa chữa. Nguyễn Trãi kiên quyết giữ chủ kiến của mình, cuối cùng Lê Thái Tông vẫn theo như bản tâu của ông, không thay Tháng 12, năm 1434, Nguyễn Trãi cùng các đại thần theo vua Lê Thái Tông làm lễ rước thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu51 .Năm 1435, tháng 6, Đại tư đồ Lê Sát tiến cử Nguyễn Trãi và một số viên quan khác vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên nhưng vua Lê Thái Tông không chấp thuận52 53 Trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, ông tranh cãi với Lê Sát và Lê Ngân về việc xử lý bảy tên ăn trộm ít tuổi can tội tái phạm. Ông khuyên Lê Thái Tông nên nhân nghĩa, nhưng khi Lê Sát và Lê Ngân đề nghị ông dùng nhân nghĩa cảm hóa kẻ trộm thì ông từ chối. Cuối cùng xử chém 2 tên, còn lại thì xử đi Trước đây, Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ áo nhưng chưa kịp thi hành. Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu, vua Thái Tông khen ngợi và tiếp nhận sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ để làm54 . Nhưng đến tháng 5, năm 1437, Lương Đăng dâng sớ thư về quy chế có nhiều ý kiến khác với Nguyễn Trãi ở những chỗ bàn về số lượng, trọng lượng các nhạc khí. Vua Thái Tông lựa chọn đề nghị của Lương Đăng, nên Nguyễn Trãi tâu xin trả lại việc đã được giao phó54 . Tháng 11 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cùng một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối, nhưng không có kết cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn55 - nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua4 .Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi không hợp với Lương Đăng về việc nhạc, ông đã xin về quê hưu trí. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng không chép ông làm gì sau thời gian này, đến năm 1442, sách mới chép việc ông mời vua Lê Thái Tông về ngự ở Côn Sơn. Theo nghiên cứu của Trần Huy Liệu, căn cứ vào biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi, năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự56 . Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo57 . Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi55 . Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực55 .Suốt trong thời gian làm quan, lúc nào Nguyễn Trãi cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Không những thơ văn của Nguyễn Trãi, mà các nho sĩ sống cùng thời với ông như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn cũng cho ta biết như . Vụ án Lệ Chi ViênTháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông58 . Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên[e] thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu giết vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Được phục hồi danh dựSau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy59 năm 144760 . Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư61 , Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù - một người con của Nguyễn Trãi - chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh 8 năm 1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện62 .Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu “ Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thếDịch làGặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũTruyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau63 ” Gia đìnhNguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai64 Vợ Bà Trần Thị Thành Bà Phùng thị Bà Lê thị Bà Nguyễn Thị Lộ Bà Phạm Thị Mẫn Con Nguyễn Khuê con bà Trần Thị Nguyễn Ứng con bà Trần Thị Nguyễn Phù con bà Trần Thị Nguyễn Bảng con bà Phùng Thị Nguyễn Tích con bà Phùng Thị Nguyễn Anh Vũ con bà Phạm Thị Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương con bà Lê Thị Tư tưởng Nguyễn TrãiThời hiện đại, một số nhà làm sử ở Việt Nam như Doãn Chính, Phan Huy Lê, Nguyễn Khắc Thuần... đã viết các sách với nội dung mà họ gọi là Tư tưởng Nguyễn Trãi, nay trích lại dưới đâyNguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam65 , tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển66 , đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam65 .Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống65 hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo67 trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu, có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó. Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiTư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh7 . Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê. Tư tưởng nhân nghĩa Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia68 . Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi68 . Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng69 . Mệnh trời Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào Tư tưởng nhân dân Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam70 Quan điểm sống Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung. Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng “ Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó ” Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiẢnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lý. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình. Tư tưởng Lão - Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên71 .Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý - Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng - văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian72 . Sự nghiệp văn chươngTheo Lê Quý Đôn chép trong sách Đại Việt thông sử, phần Văn tịch chí, thời nhà Minh xâm lược Đại Việt, Trương Phụ thu thập hầu hết sách vở của Đại Việt gửi theo đường sông về Kim Lăng, Trung Quốc. Khi Lê Lợi giành lại độc lập cho Đại Việt, ông mới ra lệnh thu thập sách vở, các bậc danh nho như Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Nguyễn Trãi,...cùng nhau sưu tập. Nhưng sau cuộc binh hỏa, sách vở mười phần nay chỉ còn được 4, 5 phần, Lê Quý Đôn có thống kê đầy đủ ở sách Đại Việt thông Đến thời hiện đại, khi biên soạn sách những tác giả như Nguyễn Hữu Sơn, Phan Huy Lê,...không rõ căn cứ vào đâu khi họ cho rằng sau vụ Lệ Chi Viên, Đinh Liệt cho hủy các sách của Nguyễn Trãi như Luật thư, Dư địa chí, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ... Văn chính luận Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và văn răn tướng sĩ, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh74 . Bình Ngô đại cáo Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông 1433 - 1442 Lịch sử Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác phẩm này vẫn còn chưa rõ ràng75 , dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán76 . Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433 Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Địa lý Dư địa chí. Thơ phú Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Theo Lê Quý Đôn sách gồm 3 quyển, Nguyễn Trãi Soạn, Trần Khắc Kiệm biên tập. Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục Vô đề 192 bài, Thời lệnh môn 21 bài, Hoa mộc môn 34 bài, Cầm thú môn 7 bài. Theo Trần Huy Liệu đây là tập thơ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay77 . Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam78 Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422. Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán. Sách Luật thư, 6 quyển, nay không còn, được Nguyễn Trãi soạn vào khoảng thời gian 1440-1441. Nhận định Sách Khâm định việt sử thông giám cương mục có những nhận định về Nguyễn Trãi như sau Theo nhận định của sử quan Ông Trãi giúp Lê Thái Tổ khai quốc, rồi lại giúp Lê Thái Tông, tài trí, phép tắc, mưu mô, đạo đức, đều vượt hơn hết mọi người lúc bấy giờ79 Theo lời phê của Tự Đức Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Trãi nếu là người hiền, thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón trước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người hiền?80 Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Thánh Tông chú thích rằngỨc Trai tiên sinh, đương lúc Thái Tổ mới sáng nghiệp theo về Lỗi Giang, trong thì bàn kế hoạch nơi màn trướng, ngoài thì thảo văn thư dụ các thành; văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, lại được vua yêu tin quí trọng. 81 Hà Nhậm Đại Người thế kỉ 16 Công giúp hồng đồ cao nữa tựa núiDanh ghi thanh sử sáng bằng gương 82 Theo Đỗ Nghi Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê Theo Dương Bá Cungcông lao của ông trùm khắp trên đời 84 Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông Khi vào yết kiến Bình Định vương ở Lỗi Giang liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng súy nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được"85 . Theo Nguyễn Năng Tĩnh Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm86 Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao... Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta87 . Theo Keith Weller Taylor, một sử gia người Mĩ nghiên cứu về lịch sử Việt NamLúc đó phần nhiều người ở các vùng xung quanh Hà Nội tức là Đông Kinh theo chính trị của người Minh. Nguyễn Trãi là người Bắc thường, và ông phải chạy đến Thanh Hóa. Hơn người Đông Kinh đã làm việc cai trị cho người Minh. Nguyễn Trãi viết thư cố thuyết phục họ bỏ người Minh theo Lê Lợi... Nguyễn Trãi là một nhà thơ tài năng, nhưng vai trò của ông về mặt chính trị và quân đội thì khá mờ nhạt. Lê Lợi và các tướng lĩnh khác chỉ muốn dùng tài năng thơ văn của Nguyễn Trãi để tuyên truyền và vận động dân chúng đứng về phía Theo Nguyễn Diên NiênHành trạng của Nguyễn Trãi ở triều Lê không thể cho ta cái nhận thức ông là một lãnh tụ, linh hồn của Khởi nghĩa Lam Sơn. Ở ông, ông chỉ là một viên quan triều đình như bao viên quan khác. Ông nổi tiếng là ở tài văn chương được người đời ca ngợi trong chức vụ Thừa chỉ mà Thái Tổ ban cho. Lê Thánh Tông cũng đã có một câu đánh giá tài năng văn chương của ôngVăn chương Nguyễn Trãi làm vẻ vang cho tác giả này sách Tang thương ngẫu lục viết vào thế kỷ 18 đã tạo nên truyền thuyết dân gian về vai trò Lê Lợi số 1, Nguyễn Trãi số 2. Sau này các nhà sử học ở Viện sử học như Phan Huy Lê cũng đã dựa vào truyền thuyết này để viết sách giáo khoa giảng dạy ở các trường học ở Việt Theo một tác giả hiện đại Nguyễn Lương Bích Công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng Tố chất thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học. Về văn chươngNguyễn Trãi được đánh giá là một nhà văn chính luận kiệt xuất91 . Đời sau có nhiều người ca ngợi văn chương của ông91 Nguyễn Mộng Tuân xem ông là "bậc văn bá" Lê Quý Đôn đánh giá ông là "văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời" Tô Thế Nghi ca ngợi ông là "sông Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao" Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông "có khí lực dồi dào... đọc không chán miệng" Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi "rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất" Theo Phan Huy Chú "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi "đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường" Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội, thể hiện lý tưởng chính trị - xã hội cao nhất trong thời phong kiến Việt Nam92 . Ngoài ra, các tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, điều này được đánh giá là một thành tựu lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học Việt Nam93 . Về nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ caLê Thánh Tông trong bài "Quân minh thần lương" 君明臣良 của tập thơ "Quỳnh uyển cửu ca" 瓊苑九歌 có câu "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" 抑齋心上光奎藻. Trong một thời gian dài, nhiều sách giáo khoa lịch sử và văn học dịch câu này là "Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm". Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân khẳng định đây là một cách dịch sai lầm và lý giải nguồn gốc như sauCách dịch câu thơ trên của Lê Thánh Tông như mọi người thường biết bắt đầu từ năm 1962, khi nhà sử học Trần Huy Liệu đưa ra bản dịch câu thơ đó trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, mà Bùi Duy Tân khẳng định là dịch sai "Ức Trai lòng sáng như sao Khuê"94 . Bùi Duy Tân phân tích, trong câu dịch này, chữ "tảo" không được dịch, chữ "Khuê" bị hiểu sai nghĩa về văn cảnh. Các nhà xuất bản, trường học lần lượt sử dụng lời dịch sai này, xem đây là lời bình luận về nhân cách Nguyễn Trãi. Hệ quả là sau đó nhiều tác phẩm văn học, ca kịch... nói về Nguyễn Trãi dùng "sao Khuê" làm cách hoán dụ để nói về ông "Sao Khuê lấp lánh", "Vằng vặc sao Khuê"...94 .Trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ đã từng có nhiều ý kiến nói về cách dịch sai này, nhưng ít tác giả làm rõ vấn đề95 . Cần xem câu thơ của Lê Thánh Tông trong toàn bộ bài "Quân minh thần lương" để làm rõ nghĩaNguyên văn chữ Hán高帝英雄蓋世名文皇智勇撫盈成抑齋心上光奎藻武穆胸中列甲兵十鄭第兄聯貴顯二申父子佩恩榮孝孫洪德承丕緒八百姬周樂治平Phiên âm Hán ViệtCao Đế anh hùng cái thế danhVăn Hoàng trí dũng phú doanh thànhỨc Trai tâm thượng quang Khuê tảoVũ Mục hung trung liệt giáp binhThập Trịnh đệ huynh liên quý hiểnNhị Thân phụ tử bội ân vinhHiếu tôn Hồng Đức thừa phi sựBát bách Cơ Chu lạc trị bìnhBài thơ này ca ngợi sự nghiệp nhà Hậu Lê. Bản dịch thơ của Hoàng Việt thi văn tuyển xuất bản năm 1958 xuất bản trước thời điểm Trần Huy Liệu đưa ra bài viết có câu dịch được phổ biến năm 1962 được các nhà nghiên cứu đính chính câu thơ trên cho rằng đã dịch đúng94 Cao Đế anh hùng dễ mấy aiVăn Hoàng trí dũng kế ngôi trờiVăn chương Nguyễn Trãi lòng soi sángBinh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy96 Mười Trịnh vang lừng nền phú quý[f]Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai[f]Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn nướcCơ nghiệp Thành Chu vận nước dàiMột dị bản khác là Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, câu thứ 4 không dùng "liệt" mà dùng "uẩn" mang nghĩa chất chứa, được nhìn nhận là chuẩn xác hơn, và do đó đối chỉnh nghĩa với câu 3 về Nguyễn Trãi hơn. Theo nghĩa đen, "khuê" là một trong 28 vị tinh tú, biểu tượng của văn chương; tảo là loài rong biển, nghĩa rộng là màu vẻ đẹp đẽ, không phải mang nghĩa "sớm"97 ."Khuê tảo" đi với nhau chỉ văn, đối với "giáp binh" ở câu dưới chỉ võ. Cách dùng "khuê" để chỉ văn chương khá quen thuộc, ngay cả Lê Thánh Tông trong "Quỳnh uyển cửu ca" cũng có viết "...thổ hồng nghê chí khí, quang khuê tảo chi văn" nghĩa là "nhả cái khí vồng mống, rạng cái vẻ văn chương...". Do đó "khuê tảo" trong câu thơ của Lê Thánh Tông là ca ngợi văn chương Nguyễn Trãi chứ không phải ca ngợi nhân cách của ông98 . Tuyên truyền và Tưởng niệmNăm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông99 . Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962100 . Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông101 .Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông64 . Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Hình ảnh trong văn hóaCuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật. Bí Mật Vườn Lệ Chi kịch,tác giảHoàng Hữu diễnNghệ sĩ ưu tú Thành Lộc Nguyễn Trãi ở Đông Quan Kịch, Nguyễn Đình Thi Đêm của bóng tối Kịch, Lê Chí Trung Vạn xuân tiểu thuyết, Yveline Feray Đêm Côn Sơn thơ, Trần Đăng Khoa Nguyễn Trãi tiểu thuyết, Bùi Anh Tấn Thiên mệnh anh hùng phim dựa theo tiểu thuyết Nguyễn Trãi - quyển 2, Bức huyết thư - đạo diễn Victor Vũ. Tên đường phốTại thành phố Hà Nội, từ thời Pháp thuộc đã có một con đường nhỏ và ngắn ở khu vực trung tâm mang tên đường Nguyễn Trãi nay là đường Nguyễn Văn Tố. Cuối năm 1945, chính quyền Cách mạng tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đổi tên con đường này, đồng thời đặt tên đường Nguyễn Trãi cho một con đường dài hơn ở khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm nay là đường Lò Sũ. Tuy nhiên, sau đó đến đầu năm 1951, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp trong đợt đổi tên đường cũ thời Pháp sang tên danh nhân Việt Nam với quy mô lớn thì vẫn duy trì tên đường Nguyễn Trãi vốn đã có từ Pháp thuộc này. Sau năm 1954, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì đường Nguyễn Trãi cũ của các chính quyền đối phương. Tuy nhiên đến năm 1964 trên cơ sở cho rằng con đường Nguyễn Trãi ngắn và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính quyền Hà Nội lại cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ thành đường Nguyễn Văn Tố và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn tuyến quốc lộ 6 đoạn từ Ngã Tư Sở đến vùng giáp ranh thị xã Hà Đông thuộc tỉnh Hà Đông cũ thì cho đặt tên là đường Nguyễn đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, từ năm 1954 chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp tiền thân của Việt Nam Cộng hòa cũng cho đặt tên một con đường mang tên là đường Nguyễn Trãi tại khu vực thành phố Chợ Lớn cũ. Tuy nhiên một năm sau, vào năm 1955 do thấy không phù hợp nên chính quyền này lại cho đổi tên đường Nguyễn Trãi cũ thành đường Trần Nhân Tôn và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn tuyến đường Quang Trung cũ đoạn đi qua khu vực quận 5 ngày nay cũng nằm trong khu vực thành phố Chợ Lớn cũ vốn dài khoảng 4 km thì cho đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Đến năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục cho nhập chung và đổi tên đường Võ Tánh cũ ở khu vực quận 2 cũ nay là quận 1 vốn dài khoảng 2 km thành đường Nguyễn Trãi. Như vậy đường Nguyễn Trãi hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh dài khoảng 6 thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ cũ nay là thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương, từ năm 1954, một phần quốc lộ 4 cũ nay gọi là quốc lộ 1, nhưng phần này đã trở thành đường chính nội bộ, không còn là một phần của đường quốc lộ đoạn từ vòng xoay trung tâm đến cầu Cái Khế cũng được đặt tên là đường Nguyễn Trãi. Sau năm 1975, chính quyền mới tiếp tục cho nhập chung và đổi tên đường Hai Bà Trưng cũ đoạn từ cầu Cái Khế tới vòng xoay Ngã tư bến xe thành đường Nguyễn Trãi, giữ nguyên cho đến ngày nay. Bên cạnh đó từ trước năm 1975 tại thị trấn Cái Răng cũ nay là phường Lê Bình, quận Cái Răng cũng có một con đường quan trọng mang tên đường Nguyễn Trãi. Chú giải• a^ Một huyện xưa ở phủ Tầm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc• b^ Một châu quận ở Quảng Tây, Trung Quốc• c^ Thiều Châu là một châu quận thuộc Trung Quốc. Văn Hiến là Trương Cửu Linh• d^ Lỗi Giang tên một địa điểm nằm ở trên bờ sông Mã, giữa huyện Cẩm Thủy, Bá Thước và Quan Hóa Thanh Hóa• e^ Nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.• f^ Mười Trịnh là mười anh em họ Trịnh, con của Trịnh Khả đều làm quan trong triều, hai Thân là cha con Thân Nhân Trung và Thân Nhân Vũ. Chú thích và tham khảo Ghi chú ^ a ă Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, Dịch giả Viện sử học; Nhà xuất bản giáo dục, 2005, Nguyễn Trãi, tr 274 ^ a ă Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, Dịch giả Viện sử học; Nhà xuất bản giáo dục, 2005, Nguyễn Trãi, tr 274, 275 ^ Ngày tháng trong bài này đều lấy theo lịch Gregory đón trước ^ a ă â b Phan Huy Chú 1961, tr. 192 ^ Đại Việt sử ký toàn thư ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 19. Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 39 thì ghi rằng chỉ có bốn người con là Nguyễn Trãi, Nguyễn Báo, Nguyễn Hùng và Nguyễn Ly. ^ a ă Trần Huy Liệu 1966, tr. 49 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1,2,3 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 49 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 20 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1,2,3 ^ a ă â Trần Huy Liệu 1966, tr. 21 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 58 ^ a ă Nguyễn Lương Bích 1967, tr. 23-38 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 62-63 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 79-80 ^ Suy ngẫm về 20 năm, một chớp mắt của lịch sử đầu thế kỷ XV, Nguyễn Diên Niên, Nhà xuất bản tri thức, 2013, tr 112, 113, 114, 115, 116, 117 ^ Lê Quý Đôn 1978, tr. 33 ^ Hoàng Xuân Hãn 1966, tr. 3-23. Đặng Nghiêm Vạn 1967, tr. 42-49. Phan Huy Lê trong sách Khởi nghĩa Lam Sơn Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1988 cũng ghi tên Nguyễn Trãi vào danh sách người dự hội thề Lũng Nhai. ^ a ă Trần Huy Liệu 1960, tr. 22 ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả, thế phả của họ Nguyễn Nhị Khê ^ Suy ngẫm về 20 năm, một chớp mắt của lịch sử đầu thế kỷ XV, Nguyễn Diên Niên, Nhà xuất bản tri thức, 2013, tr 107 ^ a ă Lê Quý Đôn, Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007 ^ a ă “Đinh tộc ngọc phả phần bốn”. Đinh Xuân Vinh. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010. ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả chép là Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần. Gia phả của nhà Lưu Nhân Chú ghi rằng chính cha Lưu Nhân Chú là Lưu Trung, anh rể Lưu Nhân Chú là Phạm Cuống và Lưu Nhân Chú mới là người nghĩ và thi hành kế này ^ name=nt3>Trần Huy Liệu 1966, tr. 110 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 114 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 30 và Lê Quý Đôn 2007, tr. 66 ^ Đại Việt thông sử, quyển 1, Đế kỷ đệ nhất ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 64 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Ức Trai thi tập tự của Trần Khắc Kiệm ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 64 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351 ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351, 352 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 47-48 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351, 352, 353, 354 ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 361, 362, 366 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 10 ^ Quan Phục hầu là chức thấp nhất trong báng phong thần, xếp thứ 9 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 60 ^ Trong Băng Hồ di sự lục do Nguyễn Trãi viết vào tháng 11 âm lịch năm 1429 thì chức tước đầy đủ của ông là Tuyên phong Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Hữu Gián nghị Đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, ban cho kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, cho quốc tính, Lê Trãi ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 89 ^ Nguyễn Trãi toàn tập, trang 16 ^ a ă Nguyễn Trãi toàn tập, trang 17 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 78 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 81 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 104 ghi rằng vua không chấp nhận đề nghị này của các quan đại thần. Tuy vậy, trong Ức Trai di tập tự của Trần Khắc Kiệm ghi chức quan của Nguyễn Trãi có chép là ông hầu giảng toà Kinh Diên và cầm đầu Ngũ kinh Bác sĩ ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 211. Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam cho rằng sách Dư địa chí nằm trong một bộ sách có nhan đề Quốc thư bảo huấn và phỏng đoán rằng đây có thể là một bộ sử lớn, bách khoa thư hoặc tùng thư ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 378 ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 384 ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, Phan Huy Chú, Nhân vật chí, trang 276 Nhà xuất bản giáo dục 2006 ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976,trang 243 ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 11 ^ a ă â Trần Huy Liệu 1966, tr. 29 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 204. Chức Đề cử Tư Phúc tự trông coi chùa Côn Sơn có lẽ được Lê Thái Tông ban cho Nguyễn Trãi vào khoảng mười năm thanh chức,, tức khoảng năm 1430 đến những năm 1440 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Trần Khắc Kiệm, Ức Trai di tập tự. Trần Huy Liệu 1966, tr. 29 thì ghi hai đạo là Đông đạo và Bắc đạo ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 131 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 246 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 45 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 128 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 189 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 309 ^ a ă Lỗi chú thích Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên gp ^ a ă â b “Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi”. Doãn Chính. ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 74 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 78 ^ a ă “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”. Lương Minh Cừ - Nguyễn Thị Hương. ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 144 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 56 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 164-173 ^ “Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hóa Việt Nam”. Trần Quốc Vượng. ^ Đại Việt thông sử, tác giả Lê Quý Đôn, dịch giả Ngô Thế Long, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 136 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 99 ^ Nhiều tác giả 1963, tr. 385 ^ Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam phê phán người đem Lam Sơn thực lục gán ghép cho Nguyễn Trãi là thiếu thận trọng ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 159 ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 17 ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 20 ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 17 ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, trang 277 ^ Hà Nhiệm Đại, Khiếu vịnh tập, dẫn trong Quốc âm thi tập, bản phiên âm của Nhà xuất bản Văn Sử Địa, 1956, trang 16 ^ Dương Bá Cung, Bình luận chư thuyết trong Ức Trai di tập, quyển 5 ^ Dương Bá Cung, Tiên sinh sự trạng khảo trong Ức Trai di tập, quyển 5 ^ Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2007, tr 308-309. Ý Lê Quý Đôn nói theo lời của Lão Tử, cho rằng Nguyễn Trãi có tài nhưng không biết thời thế không thuận lợi thì nên rút lui nên mới gặp họa ^ Nguyễn Năng Tĩnh, Tựa Ức Trai di tập của Dương Bá Cung ^ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, báo Nhân dân số 3099, ngày 19 tháng 9 năm 1962 ^ [1] Phỏng vấn KW Taylor BBC ^ Suy ngẫm về 20- một chớp mắt của lịch sử đầu thế kỷ XV, Nguyễn Diên Niên, Nhà xuất bản tri thức, 2013, tr 139 ^ Nguyễn Lương Bích, trang 603 ^ a ă Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 72 ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 79 ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 73, 76 ^ a ă â Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 94 ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 95 ^ Lê Khôi ở đây là Khai quốc công thần Lê Khôi, người gọi vua Lê Thái Tổ bằng chú ruột ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 96 ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 96-97 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 5 ^ “Nguyễn Trãi 1380 - 1442”. ^ “Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi 1380 - 1980”. Thư mục Nhiều tác giả 2006, Lam Sơn thực lục, Bản dịch, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội Ngô Sĩ Liên 1967, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch 2, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội Ngô Sĩ Liên 1968, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch 3, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội Lê Quý Đôn 2007, Đại Việt thông sử, Hà Nội Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin Lê Quý Đôn 2007, Kiến văn tiểu lục, Hà Nội Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin Phan Huy Chú 1961, Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch 4, Hà Nội Nhà xuất bản Sử học Quốc sử quán triều Nguyễn 1969, Đại Nam Nhất thống chí, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội Nhiều tác giả 1963, Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi Nhân kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học Trần Huy Liệu 1966, Nguyễn Trãi, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học Hoàng Xuân Hãn 1966, Những lời thề của Lê Lợi, Sài Gòn Tập san Sử - Địa số 1 - 2 Nguyễn Lương Bích 1967, Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ bao giờ ?, Hà Nội Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 98 Đặng Nghiêm Vạn 1967, Tìm thấy gia phả dòng họ Lưu Nhân Chú, Hà Nội Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 105 Trần Văn Giáp 1970, Ức Trai Quân trung từ mệnh tập bổ biên, Hà Nội Tài liệu đánh máy Nguyễn Lương Bích 1973, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Hà Nội Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Nguyễn Trãi 1976, Nguyễn Trãi toàn tập, Hồ Chí Minh Nhà xuất bản Khoa học xã hội Phan Huy Lê 1988, Khởi nghĩa Lam Sơn, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội Đinh Công Nhiếp 2010, Đinh tộc ngọc phả phần ba, Đinh Xuân Vinh, truy cập 16 tháng 11 năm 2010 . Đinh Công Nhiếp 2010, Đinh tộc ngọc phả phần bốn, Đinh Xuân Vinh, truy cập 16 tháng 11 năm 2010 . Nguyễn Hữu Sơn 2007, Nguyễn Trãi - Về tác gia và tác phẩm, Hà Nội Nhà xuất bản Giáo dục Nhiều tác giả 2007, Bài tập Ngữ văn 10 tập hai nâng cao, Hà Nội Nhà xuất bản Giáo dục Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, Doãn Chính . Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, Lương Minh Cừ - Nguyễn Thị Hương . Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, Trần Quốc Vượng Nguyễn Trãi 1380 - 1442, 1962 . Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi 1380 - 1980, 1980 Bùi Duy Tân 1999, Khảo và luận về một số tác gia-tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học giáo dục Nguồn Wikipedia
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai tức là Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh tiến sĩ năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi – Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan tức Thăng Long, Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề Gia Lâm. Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo". Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân – Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh Thăng Long chỉ là một túp nhà tranh góc thành Nam lều một gian. Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại tru di tam tộc khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".
Trong suốt chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, thời kì trung đại là giai đoạn có vai trò quan trọng bậc nhất hình thành nên nền văn hóa, chữ nghĩa, là bước đệm thúc đẩy thi ca dân tộc lên một tầm cao mới. Ta rỏ từng giọt máu lên thơ Kiều, khóc thương cho số phận người ca nữ đất Long Thành. Ta nghiêng mình trước sự đồ sộ của cuốn tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí lừng lẫy bao đời. Và rồi, trải bước trên con đường hoa lệ ấy, ta bắt gặp Nguyễn Trãi - kiếp người tài hoa mà bạc mệnh lừng lẫy giữa trang văn lịch sử của đất nước. Yêu lấy tác phẩm Ba Tiêu của ông như ôm lấy cảm hứng tươi mát của một khách đa tình tao nhã, như sống giữa sự trẻ trung, tinh tế của đôi tình nhân hay nét thanh tao mộc mạc của cây chuối Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm Đầy buồng lạ, màu thâu đêm. Tình thư một bức phong còn kín Gió nơi đâu gượng mở xem. Người ta bắt gặp thiên nhiên rất nhiều trong thi ca trung đại. Nó chính là hồn cốt, là điểm sáng, là viên kim cương rực rỡ nhất trên ca từ người nghệ sĩ thời bấy giờ. Lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người với tùng, trúc, cúc, mai kiêu sa, diễm lệ. Nhưng đâu đó, chính tài hoa của thi nhân đã làm bừng sáng nên giá trị những loại cây tưởng chừng bình dị mà vào thơ bỗng trở nên tao nhã lạ thường. Da Vinci đã từng nói “ Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm” quả không sai. Phong cảnh thiên nhiên mà Nguyễn Trãi đưa vào thi phẩm mình đâu chỉ cái khoảnh khắc cây chuối đang đợi xuân thì, là sự hiện diện của loài chuối như một bậc quân tử mà còn làm nổi bật một nỗi niềm trước thời cuộc, một hồn thơ trữ tình sâu sắc. Trích từ tập thơ “ Quốc âm thi tập” , người ta khó lòng nào bỏ qua bài thơ vỏn vẹn 4 câu ấy. Tiêu đề bài thơ là “ Cây chuối “ nhưng nó không đơn thuần chỉ giản đơn như vậy. Chính Xuân Diệu chẳng phải đã mất hàng chục năm mà tìm cách lý giải nó để minh chứng cho sự bất tử, tài hoa của cả một nghệ thuật mang tên Nguyễn Trãi Tình yêu thiên nhiên của Ức trai thiết tha, sâu lắng mà không kém phần mãnh liệt. Nó chọn hướng đi vào tâm hồn con người theo cách nhẹ nhàng, đằm thắm nhất. Nó chọn sự mở đầu với sức sống đang muốn trực trào trên trang giấy Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm Dẫu rằng Nguyễn Trãi đã có những cách tân độc đáo trong ca từ, giá trị thi phẩm của mình nhưng ông vẫn chưa thể thoát ra khỏi khuôn khổ của thi pháp trung đại. Để hiểu một cách sâu sắc nhất, sát nghĩa nhất với lời tình ý thơ của thi sĩ cõ lẽ chúng ta không nên quy hình ảnh cây chuối là một hình thể thực nào, đang ở một vị trí xác định nào trong năm. Tại sao không phải là “ lại tốt thêm” như cái cách ta vẫn thường sử dụng. Cốt cách thơ chính ở chỗ đó. Ức Trai cho rằng “ tốt lại thêm” chính là thuộc về bản chất, về cái đã có sẵn từ trước chứ chẳng phải phụ thuộc vào yếu tố nào mà thêm bớt tính chất ấy. Chỉ là “ bén “ thôi - túc là mới nhận thấy, mới ngửi được đâu đó thoang thoảng cái hơi thở nồng nàn của xuân mà đã trở nên tốt hơn, có giá trị hơn. Nguyễn Trãi đã từng nhấn mạnh “ hơi xuân” chỉ nằm ở nét tiêu biểu , đặc thù của nó chứ không hẳn thuộc về phạm trù thời gian nhất định. Phải tinh tế, sâu sắc biết bao nhiêu thì hồn thơ ông mới nhận ra sự biến đổi bên trong lẫn bên ngoài của cây chuối. Nó đang hấp thụ tinh túy của đất trời và trở mình với sự hiện diện giàu sức sống, nhiệt huyết hơn cả như thế tình xuân đã tiềm tàng bên trong chỉ chờ lúc bộc phát ra ngoài, gặp đúng hơi thở nó mang ắt sẽ hòa quyện lấy nhau. Với những vần thơ tiếp theo, thi sĩ Ức Trai đã trao gửi đến người thưởng thức hương thơm ngào ngạt của ’buồng’’ trong đêm khuya ’ầy buồng lạ, màu thâu đêm’’ Cách ngắt nhịp 3/3, khiến cho dòng thơ khi vang lên thật nhẹ nhàng, uyển chuyển. Nếu như mở đầu thi phẩm, Nguyễn Trãi cho ta hình dung được sức xuân tiềm tàng bên trong cây chuối thì đến với câu thơ thứ hai, ông đã cho ta hiểu rõ hơn về đặc trưng của loài cây này. Tả cảnh thiên nhiên, vậy mà thi nhân lại không miêu tả một cách cụ thể chi tiết, ông đã sử dụng bút pháp chấm phá để gợi lên cho ta những xúc cảm khác nhau, chung quy là để tạo nên những dấu ấn sâu sắc trong tâm trí người ngẫm nghĩ một hồi, ta lại thấy đâu đây phảng phất mùi thơm của chuối chín, cuốn theo hương mà tìm đến chốn để thư thái. ’ Buồng’’ ư ta có thể suy rằng đây ý là chỉ buồng chuối với sự ắp đầy tươi tốt, đã cho ta cảm nhận được sức sống, vụ trái có khi đã phủ đầy hết sân vườn khiến cho mỗi khi mặt trời lặn là lúc trỗi dậy mạnh mẽ nhất, sự quyến rũ, diệu kỳ,lôi cuốn của mùi hương ấy làm cho nhà thơ đâu thể cưỡng lại. Phải chăng cái’’ màu’’ ấy đã lan tỏa để rồi để lại sự vương vấn cho Nguyễn Trãi. Dẫu nhà thơ đã sử dụng chữ Nôm để sáng tác tác phẩm thế nhưng mỗi câu chữ lại khiến chúng ta có thể hiểu theo nhiều cách. Thực sự, thi sĩ Ức Trai quả tài tình và sáng tạo khi thông qua hình ảnh ’buồng’’chuối để gián tiếp nói về buồng của người con gái hay chính là buồng của thi nhân. Nguyễn Trãi đã gửi gắm điều gì vào câu thơ, bạn đọc có lẽ chắc thể hiểu thấu hết thế nhưng ta thấy cách hiểu của Xuân Diệu’’ buồng’’ chính là buồng của người con gái là hợp lý nhất bởi xét chủ thể của toàn thi phẩm chủ đề chính của bài là tình yêu trai gái, một cuộc tình e ấp, dịu dàng. Bởi có lẽ chính thi sĩ đã mượn hình tượng cây chuối để gửi vào đó một cảm xúc mầu nhiệm làm cho cô gái mơ màng suốt cả những đêm xuân. Ôi! Thật tuyệt diệu làm sao, khi một người luôn mang trên mình những tư tưởng nhân nghĩa lại có một tâm hồn thật trữ tình, lãng mạn! Ta lại thấy được một con người khác bên trong thi sĩ, và nhân cách này lại làm cho chúng ta như được cùng nhà thơ đồng điều, xao xuyến. Qua đây, lại càng làm nổi bật hơn về phong cách nghệ thuật cũng như tư chất nghệ sĩ của thi nhân Ức Trai. Và phải chẳng tất thảy sự tinh tế mới mẻ trên vần thơ Nguyễn Trãi đều kết đọng lại trong hai dòng thơ cuối Tình thư một bức phong còn kín Gió nơi đâu gượng mở xem Bằng cái nhìn vô cùng độc đáo mà chỉ từ một cây chuối rất đỗi quen thuộc như một bức thư tình còn phong kín. Chính trong tàu lá chuối tưởng chừng đơn giản ấy lại là bao cảm giác e ấp, cũng thật ân ái của tình yêu buổi ban đầu. Với thi ca trung đại xưa, ông đã tạo ra một hình tượng hết sức mới mẻ nhưng cũng rất chân thực. Đó vừa là tình yêu tự do đang căng tràn cảm xúc, vừa khẽ khàng, còn lắm thẹn thùng, bẽn lẽn. Kết hợp cùng thủ pháp ví ngầm ở đây, tác giả đã miêu tả hình ảnh cây chuối quen thuộc với đời sống người dân, từ đó để hướng tới ca ngợi vẻ đẹp viên mãn, căng tràn sức sống của người trẻ khi xuân về. Ấy phải chăng chính là vẻ đẹp xuân sắc, xuân tình, là vẻ đẹp của cây cỏ, và cũng chính của lòng người nữa! Phải tài tình thế nào mới có thể nhìn thấu cái đẹp vừa quen vừa lạ trong chính sự vật vốn gần gũi. Có lẽ, ta không thực sự cần phải hiểu có một cây chuối tả thực hay một mùa xác định nào trong năm. Ẩn trong bức phong thư kia cũng có thể là tình của cây, của gió, của thiên nhiên đất trời, mà hơn hết chính là anh và em. Nhưng cái “tình” ấy còn kín đáo, cuộn lại trong lá, để cho anh phải mong mỏi đợi chờ. “Phong còn kín” cất lên như muốn nói lên toàn vẹn sự trong trắng, e lệ, giữ mình của người thiếu nữ xưa. “Thư lai tiêu diệp văn do lục” Thư viết trên lá chuối gửi đến lời văn còn xanh. Phải chăng chính tác giả cũng thế ấy, cũng muốn nhờ làn gió xuân nhẹ nhàng thổi tới, “gượng mở” tàu lá chuối hay cũng chính bức thư tình ấy để được cảm nhận tình lứa đôi ngọt ngào. Bởi có lẽ, trong bốn mùa, sắc xuân chính là hơi thở toàn vẹn nhất. Vậy nên khi xuân đến mà trăm hoa đều đua sắc, vạn vật cũng sinh sôi. Thế nhưng “Gió nơi đâu?” - câu hỏi tu từ vang lên như muốn mời gọi nhẹ nhàng đến để mở ra xem. Là gió xuân và cũng chỉ có thể là gió xuân thôi bởi nó hệt như đôi bàn tay hồi hộp, xúc động, chỉ dám khe khẽ lật mở và trân trọng bức thư tình kia hết mức. Dẫu cảm xúc có đạt đến độ chín đỏ, dẫu đã say mê người thiếu nữ hết mức nhưng chàng vẫn luôn ý nhị, tinh tế. Qua từng tầng lá chuối non đang dần vươn lên, nảy nớ căng tràn nhựa sống nơi hơi xuân, ta thấy được hương thơm thoảng bay trong gió, thấy được vẻ đẹp thanh tao tươi mới sức trẻ mà hồn thơ nhạy cảm đa tình của chíng Nguyễn Trãi đã viết lên. Có lẽ tình yêu ngày xưa vốn thuần khiết, giản dị. Dẫu chỉ là “dóng thư tay viết vội” hay “những lời ngây ngô đầu môi” cũng hết sức chân thành và nâng niu lắm. Chỉ vậy thôi nhưng cũng đủ bồi hồi, sâu sắc. Vì lẽ ấy mà hai nhân vật trữ tình cũng chỉ dám xử sự cẩn trọng, e dè để được tình đôi bên. Ôi tình thuở ấy thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao! Vốn cây chuối chỉ là một hình ảnh giản đơn, quen thuộc với cuộc sống làng quê dân giã thế nhưng khi bước vào trang thơ của Nguyễn Trãi, nó lại được hiện lên một cách thật sinh động và độc đáo bởi chính thi nhân đã thổi hồn vào nó những xúc cảm sâu sắc để làm cho bài thơ được nâng tầm giá trị. Vậy ngỡ sao tình cảm đôi nam nữ ấy trong thơ ông không phải là một tình yêu dồi dào, mãnh liệt bởi Ức Trai từng làm quan và ít nhiều ông cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Nho giáo và Phật giáo cho nên cảm xúc ông mang vào vần thơ chỉ có thể là những xúc cảm e ngại của yêu đôi lứa. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng Nguyễn Trãi quả thật đã có cho mình những nét mới so với các nhà thơ đương thời. Bởi rất ít các văn, thi nhân viết về chủ đề mà có sự độc đáo, mới lạ như ông. Quả thực, ta có thể hiểu tại sao mà bài thơ’’ Ba Tiêu’’ lại có thể sống mãi với thời gian bởi vẫn còn nhiều câu hỏi, thắc mắc mà bạn đọc chúng ta vẫn chưa có lời giải đáp. Thi phẩm ’ Ba tiêu’’ được trích trong ’Quốc âm thi tập’’ là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi . Chỉ với vỏn vẹn 4 câu thơ thôi nhưng giá trị của nó mang đến cho bạn đọc lại vô cùng sâu sắc. Qua đó, cho ta hiểu rõ hơn về tâm hồn thi sĩ cùng tình yêu thiên nhiên của ông ,đặc biệt làm nổi bật được sự tài tình, đặc sắc trong lối viết của Ức Trai thi sĩ.
Đề 1 Đọc văn bản sau và trả lời các yêu cầu 1 Nguyễn Trãi 1380 – 1442 hiệu là ức Trai, quê gốc tại làng Ngái Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông mất ngày 19 – 9 – 1442, tức 16 tháng tám năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba, trong vụ án Lệ Chi Viên tức vụ án Trại Vải, huyện Gia Lương, nay thuộc Bắc Ninh, vụ án tru di tam tộc oan khốc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi, mặc dù bị mất mát nhiều, song vẫn còn khá đồ sộ về số lượng và kiệt xuất về chất lượng Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Lam Sơn thực lục, Vĩnh Lăng thần đạo bi, Chí Linh sơn phú, Dư địa chí, Băng Hồ di sự lục, ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập. 2 Trong thời trung đại, thư ban đầu là tên chung của loại thư tín, viết để trao đổi thông tin công việc hoặc tình cảm giữa người với người, hoặc gửi cho vua quan, bạn bè, người thân. Về sau, thư gửi vua được gọi là biểu, tấu còn thư chỉ là hình thức thông tin giữa những người ngang hàng. Trong Quân trung từ mệnh, là hình thức công văn, bàn việc nước, việc chiến, việc hoà nên mang đậm nét tính chính luận. 3 Với một nghệ thuật nghị luận bậc thầy, thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi cho thấy ý chí quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của quân và dân ta. Trích Học tốt Ngữ văn 10 nâng cao Học kì 2, Phạm An Miên 1/ Nêu ý chính của văn bản trên? Phương thức biểu đạt của văn bản là gì ? 2/ Tru di tam tộc là gì? 3/ Văn bản 2 có một câu văn không chính xác. Chỉ ra lỗi sai và nêu cách sử cho đúng? Sau đó, nêu phép liên kết chính trong văn bản 2. 4/ Viết đoạn văn ngắn 5 đến 7 dòng bày tỏ suy nghĩ về bảo vệ hoà bình của tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay. Trả lời 1/ Văn bản trên có ý chính Khái quát về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, thể loại thư trong văn học trung đại và giá trị của tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông. Phương thức biểu đạt của văn bản thuyết minh 2/ “Tộc” là “họ”, “Tru di tam tộc” là giết ba họ của một ngườiHọ hàng của cha, họ hàng của mẹ, họ hàng của vợ. 3/a/ Câu văn không chính xác đó là Trong Quân trung từ mệnh, là hình thức công văn, bàn việc nước, việc chiến, việc hoà nên mang đậm nét tính chính luận. Lỗi sai thiếu chủ ngữ Cách sửa bổ sung chủ ngữ từ thư trước từ là. Cân văn viết lại là Trong Quân trung từ mệnh, thư là hình thức công văn, bàn việc nước, việc chiến, việc hoà nên mang đậm nét tính chính luận. b/ Phép liên kết chính trong văn bản 2 phép lặp từ thư. 4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu -Hình thức đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, trôi chảy ; -Nội dung từ đánh giá ý nghĩa áng văn chính luận của Nguyễn Trãi, thí sinh liên hệ trách bảo vệ hoà bình của tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay. Cụ thể + Hiểu hoà bình là tình trạng không có chiến tranh hay xung đột vũ trang; là mối quan hệ hiểu biết, tôn trọng, bình đẳng, hợp tác giữa các quốc gia- dân tộc, giữa con người với con người;là hạnh phúc và khát vọng của toàn nhân loại. + Hòa bình đem lại cuộc sống ấm no ,hạnh phúc, bình yên cho con người. Còn chiến tranh chỉ mang lại đau thương tang tóc, đói nghèo, bệnh tật, trẻ em thất học, gia đình li tán … + Vì thế, tuổi trẻ phải nhận thức về giá trị to lớn của hoà bình; có hành động cụ thể trong việc bảo vệ hoà bình như góp phần tuyên truyền về độc lập dân tộc, đấu tranh chống các thế lực thù địch, tích cực học tập và lao động, sống có lí tưởng, ước mơ.. đề đọc hiểu
Nguyễn Trãi là ngôi sao sáng của văn học yêu nước đầu thế kỷ XV... Nguyễn Trãi là người chiến sĩ xuất xắc trên mặt trận văn hóa. Gắn liền mọi hoạt động văn hóa với sự nghiệp cứu nước, cứu dân, ông đã dùng ngọn bút của mình như một vũ khí chiến đấu, dùng sức mạnh của văn chương để tập hợp lực lượng của ta tiến đánh và làm tan rã quân địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.... Bài làm Văn chương của Nguyễn Trãi phục vụ trước hết cho sự nghiệp cao cả của dân tộc ta. Giương cao ngọn cờ “đại nghĩa, chí nhân”, Nguyễn Trãi đã gắn liền hoạt động văn hóa của ông với hành động “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngượd', đề cao nhân phẩm “có nhân, có trí, có anh hùng> Nguyễn Trãi dồn hết tâm huyết của mình và khí phách anh hùng của dân tộc vào đầu ngọn bút để “vệ Nam”, bảo vệ Nam quốc sơn hà, và “điện Bắc”, dẹp yên giặc phong kiến phương Bắc xâm lược. Ông còn dùng văn chương để góp phần vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, xây dựng nhân cách con người, tâm hồn và cốt cách dân tộc, xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Văn thơ của Nguyễn Trãi tìm sức mạnh chiến đấu, năng lực sáng tạo và nguồn cảm hứng trong mọi hoàn cảnh của thiên nhiên, trong thực tế xã hội và đời sống của nhân dân. Vì thế, văn của ông “Có sức mạnh nhưmười vạn hùng binh"-, thơ của ông mang khí phách của “ thi tướng' trên chiến trận “ Tao Đàn". ...Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm văn và thơ. về văn, trước hết phải nói đến Quán trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Chí Linh sơn phú, Văn bia Vĩnh Lăng. Về thơ, phải nói đến ức Trai thi tậpva Quốc âm thi tập. Trong thời kỳ “bình Ngô", ngòi bút của Nguyễn Trãi đã có sức mạnh như một mũi tiến công sắc bén. Những bài văn viết trong thòi kì này, đã được người đời sau gộp lại trong Quân trung từmệnh tắp. Những lời hiệu triệu quân dân, chiếu dụ hào kiệt, với đạo lý quang minh, ý tình tha thiết, lời văn lôi cuốn, đã góp phần làm cho nhân dân, làm cho mọi người yêu nước ai nấy “đá vàng một tiết, chung thủy một lòng', “làm cho mọi người đồng tâm hợp lực, tận trung với nước, mưu rửa quốc sỉ, diệtgiặc hung tàn". Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đề ra và thực hiện kế sách “tâm công'... Kế “tâm công' là một vũ khí sắc bén đánh vào lòng địch đã thành công rực rỡ, làm cho quân địch hoang mang tan rã, trước sau đã buộc mười một trên ba mươi thành lớn của giặc phải cởi giáp ra hàng. Thật là hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh các dân tộc. Đại cáo bình Ngô được Nguyễn Trãi thảo ra sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành được thắng lợi hoàn toàn. Đó là một áng “thiên cổ hùng văn" của dân tộc ta. Đại cắo bình Ngô có giá trị như bản Tuyên ngôn độc lập thời bấy giờ của nước Đại Việt, là bản tổng kếtsầu sắc cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, là bản anh hùng ca chlến thắng của dân tộc ta. Đại cáo bình Ngô còn là bản cáo trạng đanh thép những tội ác “trời không dung, đất không tha" của giặc Minh xâm lược, của bọn bành trướng phương Bắc. Đại cáo bình Ngô đã diễn đạt một cách hùng hồn và có hệ thống chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta. Qua cuộc thử thách lịch sử “bình Ngô”, Nguyễn Trãi đã khẳng định sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Đại Việt, khẳng định độc lập chủ quyền của đất nước ta và sự bình đẳng giữa các dân tộc. Đại cáo bình Ngô ca ngợi những chiến công lừng lẫy của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Nêu cao tinh thần nhân đạo cao cả, lòng yêu chuộng hòa bình của quân dân ta, dập tắt ngòi chiến tranh, mở con đường hòa hiếu, đưa lại “thái bình muôn thuở'. Với ý nghĩa đó, Đại cáo bình Ngô còn là một bản Tuyên ngôn nhân đạo và hòa bình của nhà nước Đại Việt. ... Ở Nguyễn Trãi, thơ cũng có nhiều bài tràn đầy hào khí như văn. Nhưng, thơ Nguyễn Trãi thường là nói lên tâm tư tình cảm, thể hiện tấm lòng trung hậu và nhân cách cao quý của ông. Với nội dung trữ tình phong phú, thơ Nguyễn Trãi còn phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và cuộc sống của dân tộc. Đáng chú ý là thơ Nôm của Nguyễn Trãi lại nhiều hơn thơ chữ Hán. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã nghiễm nhiên ở vị trí của một trong những người đặt nển tảng cho thơ ca dân tộc. Không những thế, Nguyễn Trãi đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ chính thức của văn học nước ta. Thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn hóa dân gian, văn học dân gian. Củ khoai, quả ổi, bè rau muống, luống dọc mùng... vốn rất xa lạ với văn chương bác học, đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình một cách rất tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao, những đặc điểm thanh điệu tiếng Việt, tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã được Nguyễn Trãi khai thác một cách tai tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân tộc và lời thơ có âm điệu phong phú. Nguyễn Trãi đã sớm coi trọng làm giàu ngôn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nguyễn Trãi tự hào là đã “đi khắp góc biển chân trời của Thần Châu, của đất nước ”và “đến đáu cũng phóng ngòi bút đề thơ". Suối Côn Sơn, sông Bạch Đằng, cửa Đại An, núi Yên Tử, biển vân Đồn, núi Dục Thúy... trăm núi nghìn sông mĩ lệ và hùng vĩ của Tổ quốc hiện lên trong thơ của ông. Suối Côn Sơn thánh thót như tiếng đàn. Trăm nghìn vòm núi in bóng trong vịnh Hạ Long, giống như những búi tóc của người đẹp soi bóng trong gương để làm duyên “Non Dục Thúy, mưa tan, đỉnh tựa ngọc - Cửa Đại An, triều dậy, nước ngang trờỉ'. Núi sông kì vĩ lại càng kì vĩ, in dấu vết anh hùng của ông cha. Ngắm cảnh sông Bạch Đằng, Nguyễn Trãi nhớ tới những trận chiến thắng lớn của dân tộc đã từng tiêu diệt sạch sành sanh kình ngạc trên sông ấy Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc, Qua trầm, kích chiết ngạn tằng tằng. Nghĩa là Kình ngạc băm vằm non mấy khúc, Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng. Nét bút Nguyễn Trãi không phải chỉ có hoành tráng mà lại thường tinh tế, nhẹ nhàng, thanh thoát. Một tiếng chim kêu, một cánh hoa bay, một làn hương nhẹ thoảng, mấy giọt mưa thu rơi, một ngọn gió xuân thổi, tất cả đều có thể làm rung động tâm hồn của nhà thơ. Viết về tác dụng của một làn dân ca, một nét dân nhạc, Nguyễn Trãi đã có những phát hiện tài tình Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát, Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao. Ông chài hát lên ba lần thì mặt hồ phủ khói lại rộng thêm ra. Chú chăn trâu thổi lên một tiếng sáo thì mặt trăng trên bầu trcd được đẩy cao hơn. Không gian rộng thêm ra, cao thêm lên, mà chính cũng là tâm hồn con người mở rộng ra, lớn thêm lên. Văn nghệ có thể và phải nâng con người lên một tầm vóc cao đẹp hơn là như thế. Sự nhạy cảm của Nguyễn Trãi đối với mọi biểu hiện của cuộc sống thật tinh tế và độc đáo. Vịnh hoa đào trước gió Một đóa đào hoa khéo tốt tươi, Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười. Vịnh cây chuối mới bén “hơi xuân” Tình thưmột bức phong còn kín, Gió nơi đâu gượng mởxem. Tứ thơ hay, lời thơ rất hay, nhịp thơ rộn ràng thường hay gặp trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi là như vậy. Gặp những cảnh ngộ khó khăn, Nguyễn Trãi vẫn không bao giờ nản chí Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc, Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh. Tóc bạc nhưng mắt xanh, tuổi già nhưng tấm lòng thì trẻ. Đẹp làm sao mái tóc bạc vì nỗi lo đời, và cũng đẹp vô cùng là đôi mắt xanh thắm thiết yêu cuộc đòi, yêu con người. Nguyễn Trãi đã được đồng chí của ông từ thòi kì Lam Scm ca ngợi Kinh bang hoa quốc cổ vớ tiền. Nghĩa là “Lo toan việc nước, làm đẹp cho nước, xưa nay chưa có ai được như thể Với Nguyên Trãi, nền văn hiến Đại Việt đã vươn lên một tầm cao mói. Võ Nguyên Giáp Trích bài Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệtxuất
bình luận về nguyễn trãi