bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng

Bình luận: Hợp đồng trên là hợp đồng đại lý bao tiêu theo quy định tại Điều 169 Luật Thương. mại năm 2005, theo đó, khi bên đại lý đã cam kết sẽ thực hiện việc bán trọn vẹn một khối. lượng hàng hoá trong một thời gian nhất định thì bên đại lý phải có trách (Kiemsat.vn) - Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận vừa đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt và bị đơn là Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Thương mại Cát Tường Minh. i MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU UU FFTT SSuu aann i iCC HHoo UU FFTT SSuu aann i iCC HHoo UU FFTT SSuu aann i iCC HHoo CHƯƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1 Hợp đồng thương mại quốc tế 1.1.1 Khái niệm 1.1.2 Đặc điểm 1.1.3 Phân loại hợp đồng thương mại TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. BẢN ÁN 380/2022/LĐ-PT NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 21/2022/TLPT-LĐ, ngày 30 tháng 5 năm 2022, về việc: “Tranh Bản án 432018DSST ngày 07062018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng (vay tài sản) là vụ án tranh chấp giữa ngân hàng thương mại cổ phần V (nguyên đơn) với ông Lâm Thành C cùng vợ là bà Trần Thị Ngọc P (bị đơn) và bà Nguyễn Thị Thiên L (Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên Án lệ 08/2016/AL là về cách tính thời hạn, mức lãi sau khi có phán quyết sẽ được áp dụng cho việc giải quyết các hợp đồng vay tài sản của các tổ chức tín dụng mà trong hợp đồng hai bên có thảo thuận về tính lãi liên tục đối với phần nghĩa vụ chưa thực hiện. Khi giải quyết các tranh chấp về hợp Lừa Đảo Vay Tiền Online. TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CỪ, TỈNH HƯNG YÊN BẢN ÁN 02/2020/KDTM-ST NGÀY 21/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ngày 21 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2019/TLST-KDTM ngày 08 tháng 10 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 01 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2020/QĐST-DS ngày 07/02/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST-DS ngày 27/02/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2020/QĐST-DS ngày 13/3/2020, Thông báo thay đổi thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa số 01/TB-TA ngày 01/4/2020giữa các đương sự1. Nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ Số 02 L, phường T, quận B, thành phố đại diện theo pháp luật Ông Trịnh Ngọc Kh-Chủ tịch Hội đồng thành đại diện theo ủy quyền Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963-Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V-Chi nhánh huyện P, tỉnh H.Quyết định ủy quyền số 510/QĐ-HĐTV-PC ngày 19/6/2014 của Chủ tịch Hội đồng thành viên Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V.Người được ủy quyền lại Ông Lương Thế Th, sinh năm 1977- Phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V-Chi nhánh huyện P, tỉnh H. Quyết định ủy quyền số 01/NHNo-PC/UQKK ngày 19/7/2019 của Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V-Chi nhánh huyện P, tỉnh H- Có chỉ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V-Chi nhánh huyện P, tỉnh H thôn C, thị trấn Tr, huyện P, tỉnh Bị đơn Ông Quách Văn H, sinh năm đăng ký hộ khẩu thường trú thôn V, xã Q, huyện P, tỉnh H. Địa chỉ thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện cho bị đơn theo ủy quyền Bà Trịnh Thị Đ, sinh năm 1970-Có mặt. Văn bản ủy quyền ngày 10/01/2020.Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thôn V, xã Q, huyện P, tỉnh H. Địa chỉ thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh DUNG VỤ ÁNTheo đơn khởi kiện và quá trình điều tra nguyên đơn trình bầyNgày 04/10/2017, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V Sau đây viết tắt là ngân hàng cho Ông Quách Văn H, Bà Trịnh Thị Đ vay số tiền là đồng, thể hiện tại hợp đồng tín dụng số 2411/LAV 201701548 ngày 04/10/2017. Mục đích vay để kinh doanh bánh kẹo, đường sữa, hàng tạp hóa. Lãi suất cho vay là 08%/năm, lãi suất chậm trả là 10%. Thời hạn cho vay là 12 tháng. Đến ngày 05/10/2017, ngân hàng đã giải ngân cho ông H, bà Đđủ số tiền vay là đồng, thể hiện tại Giấy nhận nợ ngày 05/10/2017. Hợp đồng được bảo đảm bằng tài sản chung của ông H và bà Đthể hiện tại hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật. Theo hợp đồng thế chấp này, ông H, bà Đdùng tài sản là toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã Q, huyện P, tỉnh H, đất đã được UBND huyện P, tỉnh Hcấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/4/2006 để bảo đảm cho khoản tiền vay theo hợp đồng tín dụng. Sau khi vay, ông H, bà Đ không thực hiện được việc thanh toán số tiền vay như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, khoản vay đã chuyển thành nợ quá hạn kế từ ngày 05/8/2018. Ông H, bà Đ mới trả ngân hàng được số tiền lãi trong hạn là đồng. Đến thời hạn trả nợ, ông H, bà Đ không trả được nợ, ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng ông H, bà Đ không thực hiện. Do vậy ngân hàng khởi kiện, yêu cầu buộc ông H, bà Đ phải trả nợ cho ngân hàng, gồm Toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng và tiền lãi gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 21/4/2020 là đồng. Kể từ ngày xét xử sơ thẩm nếu ông H, bà Đ không trả được số tiền nợ gốc thì còn phải chịu lãi suất quá hạn theo mức lãi suất như hợp đồng đối với số nợ gốc chưa trả cho đến khi trả ông H, bà Đ không trả được nợ cho ngân hàng thì đề nghị xử lý, phát mại tài sản thế chấp của ông H, bà Đ để ngân hàng thu hồi nợ theo như hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017 là toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh hợp phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông H, bà Đphải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ cho ngân ra ngân hàng không còn yêu cầu khởi kiện nào khác. Ông Quách Văn H và Bà Trịnh Thị Đ trình bày Ngày 04/10/2017, ông H, bà Đ vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V-Chi nhánh huyện P, tỉnh Hsố tiền nợ gốc là đồng, mục đích vay là để hộ gia đình ông, bà kinh doanh hàng tạp hóa, thời hạn vay là 12 tháng. Lãi suất vay là 08%/năm, ngoài ra hợp đồng tín dụng còn quy định về lãi suất trong hạn và quá hạn. Việc vay mượn này là do cả hai vợ chồng cùng thống 05/10/2017, ông H, bà Đđã nhận đủ số tiền vay là đồng, thể hiện tại Giấy nhận nợ ngày 05/10/ bảo đảm cho khoản tiền vay theo hợp đồng tín dụng này, ông H, bà Đ đã ký với ngân hàng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017. Hợp đồng thế chấp đều đã được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật. Theo hợp đồng thế chấp này, ông H, bà Đ dùng tài sản là toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã Q, huyện P, tỉnh H, đất đã được UBND huyện P, tỉnh H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/4/2006 mang tên Quách Văn H để bảo đảm cho khoản tiền vay. Hiện tại ông H, bà Đ đang quản lý, sử dụng toàn bộ khối tài sản thế chấp này, trên đất không có tài sản gì và không có tranh chấp với H, bà Đ khẳng định vẫn nợ ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng, ông H, bà Đ mới trả được cho ngân hàng được một số tiền lãi, cụ thể không nhớ là bao nhiêu, nhưng như ngân hàng tính toán là chính xác. Ông H, bà Đnhất trí về số nợ gốc và lãi như ngân hàng đã tính toán, không thắc mắc yêu cầu khởi kiện của ngân hàng, quan điểm của ông H, bà Đnhư sau Ông H, bà Đ khẳng định việc ngân hàng khởi kiện đòi số tiền gốc đồng, lãi, lãi chậm trả như ngân hàng tính toán là đúng. Ông H, bà Đ sẽ có trách nhiệm trả ngân hàng toàn bộ số nợ gốc này nhưng do đang khó khăn nên đề nghị ngân hàng cho trả dần. Đối với số tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả ông H, bà Đ đề nghị ngân hàng cho xin toàn bộ số lãi này do đang khó yêu cầu xử lý tài sản thế chấp Ông H, bà Đ đề nghị ngân hàng cho thu xếp để trả nợ cho ngân hàng, trường hợp không trả được nợ cho ngân hàng thì nhất trí để ngân hàng phát mại tài sản thế chấp như đã thỏa thuận trong hợp đồng để ngân hàng thu hồi H, bà Đ đã được Tòa án cho xem hợp đồng tín dụng ngày 04/10/2017, giấy nhận nợ ngày 05/10/2017, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017 và Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 04/10/2017. Ông H, bà Đ khẳng định chữ ký và chữ viết ở phần bên vay, bên thế chấp trong tất cả các văn bản này đúng là chữ ký và chữ viết của Ông Quách Văn H và Bà Trịnh Thị H, bà Đ đã được Tòa án thông báo kết quả thẩm định tài sản thế chấp cho ngân hàng, ông H, bà Đ nhất trí không có ý kiến ra ông H, bà Đ không còn trình bầy gì phiên tòa Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là đại diện theo ủy quyền của ông H trình bầy số tiền vay là sử dụng chung của ông H với bà Đ, đại diện ngân hàng yêu cầu bà Đ cũng phải trả nợ cho ngân diện Viện kiểm sát nhân dân huyện phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự Các đương sự đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ việc giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xửXác định quan hệ tranh chấp là Tranh chấp về hợp đồng tín dụng khoản 1 Điều 275, các điều 463, 466, 468, 357, 292, 293, 307, 317, 318, 319, 320 và 322 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 12 của Luật ngân hàng nhà nước; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng. Điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 3; 6; khoản 2 Điều 26; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ông H, bà Đ phải trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng và các khoản lãi gồm tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn như ngân hàng yêu ông H, bà Đ không trả được nợ thì phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh H để ngân hàng thu hồi nợ. Trường hợp phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông H, bà Đ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ cho ngân án phí Ông H, bà Đ phải chịu án phí sơ thẩm dân ĐỊNH CỦA TÒA ÁNSau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định[1]. Ngày 04/10/2017, ngân hàng cho ông H, bà Đ vay số tiền là đồng, thể hiện tại hợp đồng tín dụng số 2411/LAV 201701548 ngày 04/10/2017. Mục đích vay để kinh doanh bánh kẹo, đường sữa, hàng tạp hóa. Lãi suất cho vay là 08%/năm, lãi suất chậm trả là 10%/năm. Thời hạn cho vay là 12 tháng. Đến ngày 05/10/2017, ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay là đồng, thể hiện tại Giấy nhận nợ ngày 05/10/2017. Hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài sản chung của ông H và bà Đthể hiện tại hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp thời hạn trả nợ, ông H, bà Đ không thực hiện được việc thanh toán số tiền vay như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, khoản vay đã chuyển thành nợ quá hạn kế từ ngày 05/8/2018. Ông H, bà Đ mới trả ngân hàng được số tiền lãi trong hạn là đồng. Ông H còn nợ ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng và tiền lãi gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm là hàng khởi kiện, yêu cầu buộc ông H, bà Đ phải trả nợ cho ngân hàng, gồm Toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng và tiền lãi gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm là đồng. Đồng thời yêu cầu kể từ ngày xét xử sơ thẩm nếu ông H, bà Đ không trả được số tiền nợ gốc thì ông H, bà Đ còn phải chịu lãi suất quá hạn theo mức lãi suất như hợp đồng đối với số nợ gốc chưa trả cho đến khi trả ông H, bà Đ không trả được nợ cho ngân hàng thì đề nghị xử lý, phát mại tài sản thế chấp của ông H, bà Đ để ngân hàng thu hồi nợ theo như hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017 là toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh hợp phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông H, bà Đ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ cho ngân ra ngân hàng không còn yêu cầu khởi kiện nào giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng thừa nhận còn nợ gốc là đồng và các khoản lãi như nguyên đơn tính toán nhưng do khó khăn nên đề nghị ngân hàng cho trả dần số tiền nợ gốc và xin toàn bộ số tiền lãi nhưng ngân hàng không đồng đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quan điểm nhất trí phát mại tài sản là bộ diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh H là tài sản của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ngân hàng thu hồi ra nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nào khác.[2]. Xét hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với ông H, bà Đ, Hội đồng xét xử nhận định Hai bên đều thừa nhận các nội dung của hợp đồng nên xác định đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng, bên vay sử dụng vào mục đích nhằm thu lợi nhuận. Do vậy quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật các tổ chức tín dụng. Hợp đồng các bên đã ký là phù hợp các quy định của pháp với hợp đồng thế chấp để bảo đảm cho khoản vay của bên vay với ngân hàng diện tích đất tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh H là tài sản thuộc sở hữu của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các bên giao kết hợp đồng phù hợp với các quy định tại các Điều 292, 293, 298, 317, 318, 319 của Bộ luật dân sự năm 2015, sau khi ký kết hợp đồng, các bên đã thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm và hiện tại không có tranh chấp gì về hợp đồng thế chấp này. Do vậy hợp đồng thế chấp là phù hợp với các quy định của pháp luật.[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của ngân hàng, Hội đồng xét xử nhận địnhTừ các chứng cứ đã thu thập được có đủ căn cứ xác định Ngày 04/10/2017, ông H, bà Đ vay của ngân hàng số tiền là đồng. Cho đến nay mới trả được số tiền lãi trong hạn là đồng. Như vậy ông H, bà Đ còn nợ số tiền nợ gốc là đồng và tiền lãi chưa trả là tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm số nợ gốc và lãi ông H, bà Đ còn nợ ngân hàng phải trả tạm tính đến ngày 21/4/2020 là đồng. Ông H, bà Đ cũng thừa nhận số tiền nợ gốc như yêu cầu của nguyên đơn và đề nghị miễn, giảm lãi nhưng nguyên đơn không đồng ý và đây cũng là mức lãi suất đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng nên cần chấp nhận mức lãi theo thỏa thuận của các bên. Theo hợp đồng tín dụng thì người đứng tên vay là ông H nhưng đây là khoản vay để vợ chồng sử dụng chung, Bà Đ cũng xác định đây là khoản vay chung của vợ chồng nên xác định nghĩa vụ trả nợ ngân hàng là của ông H và bà đồng thế chấp của ông H, bà Đ với ngân hàng để bảo đảm khoản vay cho ông H, bà Đ được các bên giao kết phù hợp với các quy định pháp luật, sau khi ký kết hợp đồng, các bên đã thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm và hiện tại không có tranh chấp gì về hợp đồng thế chấp này. Do vậy hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật, các bên phải tuân thủ theo thỏa thuận trong hợp đồng nên nếu ông H, bà Đ không trả được nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của bên thế chấp để thu hồi vậy căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 275, các điều 463, 466, 468, 357, 292, 293, 298, 307, 317, 318, 319, 320 và 322 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 12 của Luật ngân hàng nhà nước; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, Hội đồng xét xử nhận định cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông H, bà Đ phải trả cho nguyên đơn toàn bộ số tiền nợ gốc là đồng và các khoản lãi gồm tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn, tạm tính từ ngày đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 21/4/2020 là từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp hợp ông H, bà Đ không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan pháp luật có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp của ông H, bà Đ là 100m2 đất ở tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh Hđể ngân hàng thu hồi nợ. Trường hợp phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông H, bà Đ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ cho ngân hàng. Hiện ông H, bà Đ đang quản lý, sử dụng các tài sản này.[4]. Về án phí Nguyên đơn khởi kiện được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí dân H, bà Đ phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa vấn đề khác Hội đồng xét xử không xét. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNHÁp dụng 1 Điều 275, các điều 463, 466, 468, 357, 292, 293, 295, 298, 299, 317, 318, 319, 320, 322 và 323 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 12 của Luật ngân hàng nhà nước; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng. Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 3, 6, khoản 2 Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ông Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ phải trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V toàn bộ số tiền gồmToàn bộ số tiền nợ gốc là đồng Sáu trăm triệu đồng.Tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 21/4/2020 là số tiền nợ gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 21/4/2020 ông Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ phải trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V là đồng Bẩy trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm mười bẩy nghìn bốn trăm chín mươi đồng.Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp hợp ông Quách Văn H, bà Trịnh Thị Đ không trả được nợ thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp của Ông Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ là 100m2 đất ở tại thửa đất số 20 tờ bản đồ số 13 ở thôn Q, xã QH, huyện P, tỉnh H mang tên ông Quách Văn H theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 012017/QVHOAT ngày 04/10/2017, hợp đồng thế chấp đã được đăng ký Giao dịch bảo đảm ngày 04/10/2017 để ngân hàng thu hồi Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ đang quản lý, sử dụng tài sản này. Có sơ đồ kèm theo Trường hợp phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ cho ngân án phí Ông Quách Văn H và bà Trịnh Thị Đ phải chịu đồng Ba mươi tư triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn sáu trăm chín mươi chín đồng tiền án phí sơ thẩm kinh doanh thương trả lại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V số tiền đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 005884 ngày 08/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh vấn đề khác Hội đồng xét xử không hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân kháng cáo Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI BẢN ÁN 82/2021/KDTM-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ngày 19 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2021/TLST- KDTM ngày 16/7/2021 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 347/2021/QĐXX-KDTM ngày 29 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 210/QĐST- KDTM ngày 08/11/2021 giữa các đương sựNguyên đơn Ngân hàng N Địa chỉ trụ sở Số 2 đường L, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà đại diện theo pháp luật Ông Tiết Văn Th- Tổng Giám diện ủy quyền Ông Đoàn Ngọc L- Giám đốc Agribank Chi nhánh Thăng Long Theo Quyết định ủy quyền số 2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2019.Đại diện theo ủy quyền lại Bà Nguyễn Thị Thu H – Trưởng phòng Khách hàng Doanh nghiệp Agribank Chi nhánh Thăng Long Theo Giấy ủy quyền số 804/ ngày 22/4/2021. Có mặt Bị đơn Công ty Cổ phần T Có mặt Trụ sở Số 38 Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà đại diện theo pháp luật Ông Nguyễn Mạnh Hùng- Tổng Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyềnBà Nguyễn Hồng L. HKTT Số 194, Tổ 8, phường Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, Hà Nội. Bà Trần Thùy D. HKTT Xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Bà Nguyễn Thu Tr; HKTT 80 đường N, Hai Bà Trưng, Hà Giấy ủy quyền số 1611/2021/GUQ-TBH ngày 16/11/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanÔng Đinh Ngọc K, sinh năm 1959. có mặt Bà Đặng Thị A, sinh năm 1959. vắng mặt Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1940. vắng mặt Anh Đinh Ngọc K, sinh năm 1991. vắng mặt Chị Vũ Thị N, sinh năm 1992. vắng mặt Anh Lê Hữu C, sinh năm 1984. vắng mặt Chị Đinh Hải Y, sinh năm 1984. vắng mặt Cháu Lê Khánh C, sinh năm 2010, Do bố mẹ là anh Chiến và chị Yến đại diện theo pháp luật. vắng mặt Cháu Lê Khánh M, sinh năm 2012, Do bố mẹ là anh Chiến và chị Yến đại diện theo pháp luật. vắng mặt Cùng địa chỉ số 61 phố L, phường L, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà DUNG VỤ ÁNTheo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 01 năm 2021 của nguyên đơn là Ngân hàng N và các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N là bà Nguyễn Thị Thu Hằng trình bàyQuá trình cấp tín dụngCăn cứ Giấy đề nghị vay vốn ngày 23/5/2013 của Công ty CP Tkèm theo hồ sơ vay vốn, biên bản họp Hội đồng Quản trị của Công ty CP Tsố 08/2013/TBH- HĐQT ngày 15/4/2013 về việc vay vốn Agribank chi nhánh Thăng Long số tiền đồng và ông Đinh Ngọc K là người đại diện Công ty ký kết các hợp đồng liên quan đến giao dịch với Ngân hàng Agribank, Agribank chi nhánh Thăng Long phê duyệt hạn mức cho vay và đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 845/2013/HĐHM ngày 24/6/2013 với Công ty CP Tvới nội dungPhương thức cho vay Cho vay theo hạn mức tín dụng. Mức dư nợ cao nhất đích vay vốn Bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty CP Tổng Bách suất cho vay 11%/năm Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay;Thời hạn cho vay 12 tháng kể từ ngày ký Hợp đồng tín dụng; Trả lãi Trả lãi vào ngày 25 hàng hoạch trả nợ gốc Cuối pháp đảm bảo Thế chấp tài sản của bên thứ 3 là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2 phường Lê Đại Hành, quận Hai Ba Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/ đồng thế chấp số quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 14/10/2013 giữa Agribank Chi nhánh Thăng Long-Phòng Giao dịch số 7 Bên nhận thế chấp và ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An Bên thế chấp. Giá trị tài sản thế chấp đồng. Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 10107035554 ngày 22/10/2013 tại Văn phòng Đăng ký đất đai quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà vi phạm nghĩa vụTổng số tiền gốc, lãi trong, lãi quá hạn tạm tính đến ngày 19/11/2021 là đồng, cụ thể Gốc trong hạn quá hạn trình thực hiện Hợp đồng tín dụng số 845/2013/HĐHM ngày 24/6/2013, Công ty Tđã để phát sinh nợ quá hạn. Agribank Chi nhánh Thăng Long đã nhiều lần làm việc với Công ty Tyêu cầu trả nợ. Công ty cũng đã nhiều lần cam kết trả nợ nhưng cho đến nay vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hết cho Agribank theo các điều khoản của Hợp đồng tín dụng và cam kết tại các biên bản làm việc. Đồng thời với việc đôn đốc thu nợ, Agribank chi nhánh Thăng Long đã nhiều lần gửi Công văn, văn bản và thỏa thuận trong các biên bản làm việc yêu cầu bên thế chấp thực hiện trả nợ theo các Điều khoản tại Hợp đồng thế chấp số quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 14/10/2013 nhưng bên thế chấp cố tình không thực vấn đề Ngân hàng yêu cầu Tòa án nhân dân quận Ba Đình giải quyết gồmTòa án buộc Công ty Cổ phần Tphải thanh toán cho Ngân hàng Agribank- Chi nhánh Thăng Long toàn bộ số tiền gốc, lãi, lãi quá hạn. Tổng số tiền gốc, lãi, lãi quá hạn tạm tính đến 19/11/2021 là đồng, cụ thểGốc trong hạn đồng. Lãi quá hạn toàn bộ nợ lãi phát sinh của khoản nợ gốc chưa thanh toán từ ngày 19/11/2021 đến khi tất toán khoản buộc nếu Công ty Cổ phầnTkhông thanh toán khoản nợ nêu trên cho Agribank Chi nhánh Thăng Long ngay sau khi Bản án/Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng N thông qua Agribank chi nhánh Thăng Long có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2 phường Lê Đại Hành, quận Hai Ba Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/ Hợp đồng thế chấp ngày 14/10/2013, số công chứng Quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Vạn Xuân. Chứng nhận việc thế chấp ngày 22/10/2013 tại Văn phòng Đăng ký đất và nhà quận Hai Bà Trưng để thu hồi nợ và các khoản lãi phát sinh theo quy định của pháp đơn Công ty Cổ phần Tdo bà Trần Thùy Dung đại diện theo ủy quyền trình trình bàyNgày 15/4/2013, Hội đồng Quản trị Công ty T đương thời đã họp, thống nhất thông qua nghị quyết của HĐQT về “Quyết định đầu tư phương án kinh doanh và vay vốn tại Phòng Giao dịch số 7 –Chi nhánh Thăng Long- Ngân hàng N với số tiền là đồng. Đồng thời Hội đồng quản trị cũng cam kết cùng chịu trách nhiệm trước pháp luật về số tiền cấp hạn mức tín dụng này khi đến hạn mà Công ty không trả được nợ cho Agribank theo nội dung trong biên bản họp HĐQT số 08/2013/ 24/6/2013, Công ty Cổ phần Tđại diện theo pháp luật là ông Đinh Ngọc K đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 845/2013/HĐHM với Ngân hàng N với các nội dung như sauAgribank cho vay theo hạn mức tín dụng số tiền tiền cho vay cụ thể chi tiết sẽ được tính theo từng lần rút vốn theo từng giấy nhận lần nhận nợ do ông Đinh Ngọc K- Tổng giám đốc và ông Phạm Ngọc Dương- Phó tổng giám đốc Công ty ký nhận thành nhiều đích sử dụng tiền vay Bổ sung vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh sản xuất năm 2013-2014 của Công 14/10/2013, ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An đã đồng ý thế chấp quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất tại địa chỉ số nhà 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của mình được ghi nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/2006 theo Hợp đồng thế chấp số công chứng quyển số 10 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên văn phòng Công chứng Vạn Xuân chứng nhận ngày 14/10/2013 để đảm bảo các nghĩa vụ thanh toán với mức dư nợ tối đa đồng cho bên vay vốn là Công ty Tổng Bách tại, Công ty Tđang ra soát lại toàn bộ quá trình nhận nợ và thanh toán phần nợ gốc, lãi trong hạn và quá hạn như Agribank đã nêu trong Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 29/10/2021 tại Tòa án nhân dân quận Ba lãnh đạo mới của Công ty Ttiếp nhận quản lý Công ty Ttừ ngày 23/11/2020, nay đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật, chứng cứ theo các hồ sơ, tài liệu và ý chí giao dịch của hai bên để xét xử công có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Khanh trình bàyÔng nguyên là Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tổng Bách Hóa. Năm 2007 Ngân hàng yêu cầu phải có tài sản thế chấp mới cấp hạn mức tín dụng cho Công ty cổ phần Tổng Bách Hóa. Để có thể tồn tại được T phải có vốn để sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy lãnh đạo công ty đã họp bàn và thống nhất đề nghị các đồng chí lãnh đạo công ty Tmượn tài sản là nhà, đất, xe ô tô, sổ tiết kiệm để thế chấp vào ngân hàng để Tđược cấp hạn mức tín dụng vay vốn. Công ty sẽ trả phí cho mượn tài sản là 0,05%/1 thángvăn bản quy định số 128/ ngày 5/5/2007. Nhưng do khó khăn nên T chưa trả cho ai khoản phí đó, ông và vợ ông cho Công ty mượn tài sản để thế chấp cho khoản vay của Tổng bách hóa. Cụ thể, ông và vợ là bà Đặng Thị An có thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2 phường Lê Đại Hành, quận Hai Ba Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/ được lãnh đạo cho mượn 6 quyển sổ đỏ nhà đất, 1 số xe ô tô, sổ tiết kiệm để thế chấp vào Ngân hàng làm hạn mức vay vốn. Tất cả đã được Tgiải quyết trả lại cho lãnh đạo công năm 2020 Tđã có biên bản làm việc cam kết trả hết nợ trước 31/12/2020 với số tiền gốc và lãi là đồng nhưng nay vẫn chưa trả ông yêu cầu T phải trả nợ cho Ngân hàng để gia đình ông được lấy tài sản nay, tài sản do gia đình ông quản lý sử dụng và những người đang sinh sống thường xuyên làÔng Đinh Ngọc K, sinh năm 1959. Bà Đặng Thị An, sinh năm Nguyễn Thị U, sinh năm 1940. Anh Đinh Ngọc Kh, sinh năm 1991. Chị Vũ Thị N, sinh năm Lê Hữu Ch, sinh năm 1984. Chị Đinh Hải Y, sinh năm Lê Khánh C, sinh năm 2010 Cháu Lê Khánh M, sinh năm khi thế chấp cho đến nay nhà đất vẫn nguyên trạng là nhà 04 tầng, 1 tum không sửa chữa, xây dựng phiên tòaNgân hàng trình bày Công ty Cổ phần T mới trả được số nợ gốc là đồng, Ngân hàng chưa thu khoản lãi nào kể từ ngày 05/7/ 17 tháng 12 năm 2020 Ngân hàng và Công ty Cổ phần Tcó ký biên bản làm việc, theo đó Công ty Cổ phần Tsẽ trả số nợ gốc và lãi là đồng cho Ngân hàng trước ngày 31/12/2020 và Ngân hàng sẽ giải chấp tài sản bảo đảm của bên thứ nhiên, Công ty Cổ phần Tkhông thực hiện theo biên bản làm việc đó nên ngày 04/01/2021 Ngân hàng đã có công văn số 02/ thông báo cho Công ty biết về việc biên bản làm việc ngày 17/12/2020 hết hiệu lực thi hành, yêu cầu Công ty phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng trước ngày 15/01/2021, nếu không Ngân hàng sẽ khởi kiện ra Tòa Công ty còn nợ gốc đồng và lãi tạm tính đến ngày 19/11/2021 làLãi trong hạn được tính từ ngày 05/7/2013 đồng;Lãi quá hạn tính từ ngày 06/11/2013 gốc và lãi chưa trả đồng. Đề nghị Tòa án buộc Công ty trả số nợ gốc và lãi này cho Ngân ty Cổ phần Tthừa nhận còn nợ gốc và lãi như Ngân hàng trình bày. Tuy nhiên đề nghị Ngân hàng xem xét để cho Công ty được trả số nợ gốc và lãi đồng theo như biên bản làm việc ngày 17/12/2020 và Công ty sẽ có phương án và lộ trình trả nợ cho Ngân hàng số tiền theo biên bản làm việc ngày 17/12/ Khanh trình bày Đề nghị Ngân hàng và Tòa án xem xét để Công ty trả nợ gốc và lãi là đồng theo biên bản làm việc ngày 17/12/2020 để Ngân hàng giải chấp tài sản cho gia đình diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình phát biểu quan điểmVề việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm, Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc giải quyết vụ án Hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp được các bên tự nguyện ký kết, nội dung và hình thức đúng quy định của pháp luật. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo quy định pháp luật là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng. Trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền kê biên phát mại tài sản để thu hồi đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, Ngân hàng không phải chịu án phí.[1]. Về tố tụngNHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁNBà Nguyễn Thị U, bà Đặng Thị A, anh Đinh Ngọc Kh, chị Vũ Thị Nh, anh Lê Hữu Ch, chị Đinh Hải Y, cháu Lê Khánh C, sinh năm 2010 và cháu Lê Khánh M, sinh năm 2012, do bố mẹ là anh C và chị Y đại diện theo pháp luật đã được triệu tập phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nói trên.[2]. Về nội dung[ Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, nhận thấyNgày 24/6/2013, Ngân hàng N chi nhánh Thăng Long – Phòng Giao dịch số 7 sau đây gọi là Ngân hàng và Công ty Cổ phần Tsau đây gọi là Công ty ký Hợp đồng tín dụng số 845/2013/HĐHM, theo hạn mức tín dụng số tiền hiện hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty Cổ phần Tnhiều ty đã trả được một phần nợ gốc, nay còn nợ Ngân hàng nợ gốc đồng và lãi theo quy hàng yêu cầu Công ty trả nợ tạm tính đến ngày 19 tháng 11 năm 2021, tổng số tiền đồng. Trong đóGốc trong hạn quá hạn phiên tòa, Công ty xác nhận còn nợ Ngân hàng số nợ gốc là đồng và số lãi theo như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng xem xét đồng ý cho Công ty trả nợ theo biên bản làm việc ngày 17/12/2020, tuy nhiên Ngân hàng không đồng ý vì cho rằng biên bản làm việc đó Công ty đã vi phạm không thực hiện theo thỏa thuận đã được ghi trong biên bản nên nay Ngân hàng khởi kiện để nghị Tòa án giải quyết theo pháp thấy, Công ty không trả nợ cho Ngân hàng theo đúng thời hạn thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng là vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên, vi phạm Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng. Do đó, Ngân hàng yêu cầu Công ty phải trả toàn bộ số nợ gốc và tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn tạm tính đến ngày 19/11/2021 là có cơ sở chấp ty phải tiếp tục thanh toán nợ lãi phát sinh theo qui định tại hợp đồng tín dụng, kể từ ngày 19 tháng 11 năm 2021 cho đến ngày thanh toán xong khoản nợ gốc.[ Xét yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của Ngân hàngTài sản đảm bảo cho khoản vay trên là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2 phường Lê Đại Hành, quận Hai Ba Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/ Hợp đồng thế chấp ngày 14/10/2013, số công chứng Quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Vạn Xuân. Chứng nhận việc thế chấp ngày 22/10/2013 tại Văn phòng Đăng ký đất và nhà quận Hai Bà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì tài sản gắn liền với đất là nhà tường gạch mái ngói một liệu xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án thể hiện tài sản trên đất là nhà bê tông 04 tầng, 01 hàng bên nhận thế chấp và ông Khanh bên thế chấp cũng đều xác nhận tại thời điểm thế chấp thì tài sản trên đất là nhà bê tông 04 tầng, 01 tum thuộc quyền sở hữu của ông Khanh và vợ là bà An dùng để thế chấp cho Ngân thấy, hợp đồng thế chấp nói trên được các bên tự nguyện ký kết, hợp đồng được công chứng và được đăng ký giao dịch bảo đảm là đúng quy định của pháp luật. Do đó, trong trường hợp Công ty Cổ phần Tkhông thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất là nhà bê tông 04 tầng, 01 tum nêu trên để thu hồi nợ là đúng quy định của pháp luật.[3]. Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận.[4]. Về án phíCông ty Cổ phần Tphải chịu án phí dân sự sơ thẩm là hàng không phải chịu án phí, được nhận lại đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0067311 ngày 16/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình.[5]. Về quyền kháng cáoCác đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm các lẽ trên;QUYẾT ĐỊNHCăn cứ Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân cứ Điều 95 của Luật các tổ chức tín cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi cứ Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N đối với Công ty Cổ phần Tvề việc tranh chấp hợp đồng tín Công ty Cổ phần Tphải trả nợ cho Ngân hàng N số tiền nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 19/11/2021 là đồng, trong đóGốc trong hạn quá hạn từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong Công ty Cổ phần Tcòn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và các giấy nhận nợ nhưng phải phù hợp với quy định của pháp Trường hợp Công ty Cổ phần Tkhông thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng N có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mại tài sản bảo đảm sau đây để thu hồi nợQuyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhà 04 tầng 01 tum tại số 61 phố Lê Đại Hành số cũ 67 Vân Hồ 2 phường Lê Đại Hành, quận Hai Ba Trưng, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Ngọc K và vợ là bà Đặng Thị An Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG805559, hồ sơ gốc số do UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cấp ngày 13/10/2006 cho ông Đinh Ngọc K và bà Đặng Thị An.Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp nêu trên sẽ được thanh toán toàn bộ khoản nợ trong hợp đồng tín dụng nêu trên nếu dư Ngân hàng sẽ trả lại cho bên thế chấp, nếu thiếu thì bên vay tiếp tục trả cho Ngân hàng số tiền Về án phí Công ty Cổ phần Tphải chịu án phí sơ thẩm là hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam không phải chịu án phí, được nhận lại đồng tạm ứng án phí theo biên lai số lai số 0067311 ngày 16 /7 /2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, 7a và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân Về quyền kháng cáoCác đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm 1 MỤC LỤC Trang I. LỜI NÓI ĐẦU 2 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án 4 Tóm tắt nội dung vụ án 17 Yêu cầu và lập luận của các bên 19 Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án 20 Các quy định pháp luật mà Tòa án áp dụng trong bản án 20 III. PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 23 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 24 Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 26 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 26 Vấn đề pháp lý về trách nhiệm của Công ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tập đoàn Kumgang Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 28 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 28 IV. KẾT LUẬN 30 V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 32 2 I. LỜI NÓI ĐẦU Thời điểm nền kinh tế nước nhà chuyển sang nền kinh tế thị trường, một cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Việt Nam với những cơ hội phát triển mới. Tuy nhiên, cánh cửa hội nhập mở toang cũng đồng nghĩa với theo sau đó, là những khó khăn thách thức. Các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, cộng với biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Rất nhiều doanh nghiệp không đủ sức đứng vững trước những biến động thị trường, những doanh nghiệp ngấp nghé bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Thức tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vốn cho các doanh nghiệp. Dịch vụ cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vượt trội đã trở thành giải pháp kịp thời và hợp lý cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp chọn đi thuê tài chính hơn càng hình thức cấp tín dụng truyền thống khác. Tuy nhiên, sự phức tạp trong thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ cho thuê tài chính, cụ thể là bên đi thuê, bên cho thuê, và bên bán tài sản là điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý. Sự cẩn thận, toàn diện khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng cho thuê tài chính cũng là điều mà tất cả các doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm. Những rủi ro từ hợp đồng cho thuê tài chính, nếu không được tiên liệu giải quyết từ khi thỏa thuận hợp đồng sẽ chính là con dao hai lưỡi với các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn về vốn nay lại phải gánh chịu thêm thiệt hại từ rủi ro của hợp đồng cho thuê tài chính. Nhóm chúng tôi lựa chọn bình luận một bản án phúc thẩm về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính, với mong muốn qua những phân tích, bình luận có thể hiểu rõ hơn quy định pháp luật, cũng như thực tiễn những vấn đề phát sinh trong hợp đồng cho thuê tài chính. Mặc dù Bản án được nhóm sử dụng để phân tích, bình luận có hiệu lực từ ngày 09 tháng 5 năm 2006, tức là trong thời gian Luật Các tổ chức tín dụng 1997 có hiệu lực pháp luật. Song các quy định về hoạt động cho thuê tài chính của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành về cơ bản đều tương đồng với Luật Các tổ chức tín dụng 1997. Ngoài ra, Nghị định 16/2001/NĐ-CP, văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử 3 áp dụng để giải quyết vụ án trong trường hợp chỉ vừa hết hiệu lực từ ngày 25 tháng 6 năm 2014, khi được thay thế bởi Nghị định 39/2014/NĐ-CP về Hoạt động của Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính. Nói cách khác, không có quy định khác biệt nào trong các văn bản pháp luật hiện hành làm thay đổi giải pháp đối với các vấn đề pháp lý trong vụ án. Chính vì những lý do đó, có thể thấy các vấn đề pháp lý được đặt ra và giải quyết trong Bản án mà nhóm lựa chọn vẫn còn mang ý nghĩa pháp lý, thực tiễn, thời sự. 4 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án TÕA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÕA PHÖC THẨM TẠI HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bản án số 102/2006/KTPT Ngày 09/5/2006 V/v tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÕA PHÖC THẨM TÕA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Ông Hà Tiến Triển Các Thẩm phán Ông Trần Trọng Liên Ông Bùi Thế Linh Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Bà Nguyễn Thu Thủy, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội. Ngày 09 tháng 5 năm 2006 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh tế thị lý số 01KT/2006 ngày 25 tháng 01 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1081/2006/QĐPT ngày 20/4/2006 giữa các đương sự * Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương. Trụ sở D2 Hoàng Hoa Thám, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. 5 Đại diện của nguyên đơn Ông Phạm Thanh Huy làm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo giấy ủy quyền ngày 14/3/2006 của ông Phạm Ngọc Thanh - Giám đốc Công ty - có mặt. * Bị đơn Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Trụ sở Tầng 12 tòa tháp Vincom - 191 Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện của bị đơn bà Phạm Thị Dung làm đại diện theo giấy ủy quyền số12/UQ-CTTC ngày 21/3/2006 của ông Nguyễn Đức Thịnh - Giám đốc Công ty. Có luật sư Nguyễn Hoàn Thành – Văn phòng Luật sư Phạm và liên doanh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn. NHẬN THẤY Theo bản án dân sự sơ thẩm, vụ việc được tóm tắt như sau Ngày 01/3/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương gửi văn bản đến Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị xin thuê tài chính loại tài sản là màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các đi ốt phát quang màn hình LED, kèm theo là bộ hồ sơ đề án đầu tư bản quảng cáo điện tự LED tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và bản thỏa thuận nguyên tắc điều khoản cuả hợp đồng mua bán bảng thông tin LED giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình dương với Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Bên A, ký hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HD-CTTC với Công ty trách nhiệm hữu hạn và quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương Bên B nội dung cho thuê một màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các điốt phát quang như bên B đề nghị, mục đích sử dụng để kinh doanh các dịch vụ quảng cáo bằng màn hình. Địa điểm đặt màn hình tại đường Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa. * Việc thuê và cho thuê được thỏa thuận trên nguyên tắc - Bên B lựa chọn tài sản, nhà cung ứng, ký thỏa thuận nguyên tắc với nhà cung ứng với các điều kiện như chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hành… 6 Bên B phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các vấn đề đã hỏa thuận với nhà cung ứng. - Bên A ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung ứng căn cứ vào thỏa thuận nguyên tắc đã được ký giữa bên B và nhà cung ứng, tài sản được bàn giao giữa 3 bên, cả 3 bên sẽ ký vào biên bản nghiệm thu tài sản. - Căn cứ đề nghị thanh toán của bên B và biện bản nghiệm thu tài sản bên A sẽ thanh toán cho nhà cung ứng tổng số tiền đầu tư thiết bị bao gồm thuế VAT là USD tương đương VNĐ, trong đó + Bên A tài trợ VN Đ tương đương 46% giá trị hợp đồng và phí bảo hiểm trong suốt thời gian thuê. + Phần còn lại VN Đ tương đương 54% bên B sẽ phải trả trước cho bên A để bên A thanh toán với nhà cung ứng. - Lãi suất thuê năm đầu tiên là Từ năm thứ hai trở đi áp dụng lãi suất thả nổi theo quy định của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Lãi suất quá hạn bằng 15% lãi suất trong hạn. - Phí thuê bằng số dư nợ lãi suất thuê/ quý. Trả 3 tháng một lần. * Thời hạn thuê là 30 tháng, kể từ ngày bên A thành toán món đầu tiên cho nhà cung ứng cho đến khi bên B trả hết tiền thuê và phí cho bên A. * Hợp đồng quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Hợp đồng cho thuê tài chính có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi, sửa chữa Điều 12 khoản 3. Trường hợp chấm dứt hợp đồng theo điều khoản này, sau khi bên B trả đủ số tiền thuê cho bên A theo hợp đồng thuê, khi bên A nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán thì bên A sẽ hoàn trả lại cho bên B số tiền bảo hiểm tài sản. Ngoài ra hợp đồng còn quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong đó bên A có nghĩa vụ đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê. Bên B có nghĩa vụ trả đầy đủ, đúng hạn tiền thuê và lãi suất quá hạn nếu có theo đúng lịch thanh toán được ký kết kèm theo hợp đồng; thanh toán các chi phí có liên quan 7 đến việc nhập khẩu, thuế, đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, bảo hiểm đối với tài sản thuê và các chi phí khác theo quy định của Nhà nước. Sau khi ký hợp đồng các bên còn ký tiếp 04 bản phụ lục hợp đồng nữa thống nhất lịch thanh toán tiền thuê màn hình LED và kéo dài thời hạn thuê từ 30 thành 45 tháng. Để cụ thể hóa thỏa thuận nguyên tắc ngày 01/3/2002 dựa trên thỏa thuận giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc, dựa trên Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002 ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính đã ký “ Hợp đồng ủy thác nhập khẩu” Hợp đồng ủy thác nhập khẩu”. Theo đó Công ty cho thuê tài chính ủy thác cho Công ty quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương ký kết hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc và làm các thủ tục nhập khẩu thiết bị màn hình LED nêu trên. Phí ủy thác 0%. Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng ủy thác nhập khẩu. Ngày 12/4/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã ký hợp đồng mua bán bảng thông tin LED với người bán là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Hợp đồng quy định giá trị màn hình là USD, giá trị này bao gồm Trị giá bảng LED vận chuyển đến Việt Nam, bảo hiểm lắp đặt, chạy thử, phụ tùng thay thế, bảo hành, đào tạo, huấn luyện nhân viên kỹ thuật của bên mua trong vòng hai tháng và là giá đến cảng Việt Nam. Bên mua chịu trách nhiệm chuẩn bị địa điểm cho bảng LED xây dựng, lắp đặt giá đỡ bảng LED theo thiết kế; nguồn điện với công suất yêu cầu được kéo đến địa điểm lắp đặt, chuẩn bị diện tích để làm phòng điều khiển cho màn hình… Bên bán có trách nhiệm lắp đặt màn hình trên giá đỡ do bên mua chuẩn bị, hiệu chỉnh, chạy thử và bàn giao bảng LED cho bên mua ở trạng thái hoạt động tốt phù hợp với các thông số của màn hình ghi trong báo giá chính thức của bên bán. Việc lắp đặt phải được hoàn thành 10 ngày kể từ khi bảng LED được vận chuyển đến địa điểm lắp đặt. Thời gian bảo hành là 02 năm kể từ ngày hoàn thành lắp đặt và bàn giao bảng LED cho bên mua. Trong thời gian bảo hành, bên bán có trách nhiệm sửa chữa ngay những hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. 8 Hai bên thỏa thuận thanh toán bằng L/C không hủy ngang 100% giá trị của màn hình là USD mở tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Về quy trình thanh toán sẽ được phân chia làm 04 lần + Lần 1 Bên bán được quyền rút 50% giá trị L/C sau khi trình bộ chứng từ sạch. + Lần 2 Bên bán được quyền rút 40% giá trị L/C khi bàn giao xong phụ tùng thay thế. + Lần 3 Bên bán được quyền rút 55 giá trị L/C sau 9 tháng. + Lần 4 Bên bán được quyền rút nốt 5% giá trị L/C sau 12 tháng. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi hết thời hạn bảo hành và nếu có tranh chấp sẽ chọn trọng tài thương mại quốc tế là cơ quan tài phán. Ngày 03/8/2002 đại diện của ba bên bên bán, bên mua và bên cho thuê đã ký biên bản bàn giao lắp đặt màn hình LED. Các bên xác nhận tài sản bàn giao và lắp đặt phù hợp với quy định của hợp đồng mua bán và hợp đồng cho thuê tài chính. Màn hình đã chạy thử tốt. Ngày 12/7/2002 Công ty cho thuê tài chính cũng đã làm thủ tục mua bảo hiểm cho màn hình LED nêu trên với tổn số phí là VNĐ. Thời hạn bảo hiểm là 30 tháng kể từ ngày 12/7/2002 đến hết ngày 12/01/2005 có giấy chứng nhận bảo hiểm thiết bị điện tử cấp ngày 12/7/2002. Phía Công ty Thái Bình Dương đã làm các thủ tục thanh toán tiền phí bảo hiểm đối với Công ty cho thuê tài chính. Về thanh toán Công ty cho thuê tài chính đã thanh toán cho Công ty Kumgang 90% giá trị L/C = VNĐ, còn lại 10% = USD do còn đang trong thời gian bảo hành và hợp đồng mua bán đang còn hiệu lực chưa thanh toán trong số tiền VNĐ phía Công ty Thái Bình Dương trả VNĐ, phía thuê tài chính trả VNĐ. Cuối tháng 11/2002 màn hình LED bắt đầu bộc lộ nhiều sai sót về chất lượng. Bên bửi đơn đến cơ quan thi hành án Hà Nội. Ngày 28/3/2005 Phòng thi hành án Hà Nội đã ra quyết định thi hành án số 48/2005 cho thi hành phán quyết của Trọng tài vụ kiện số 10/03 nêu trên. 10 Tuy nhiên ngày 11/7/2005 cơ quan thi hành án Hà Nội đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án vì lý do bên phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Quan điểm của nguyên đơn Công ty Thái Bình Dương đã gửi nhiều công văn đến Công ty cho thuê tài chính và Công ty bảo hiểm Hà Nội yêu cầu giải quyết sự cố của màn hình, nhưng Công ty bảo hiểm Hà Nội đã từ chối trách nhiệm bồi thường mà lại cho rằng lỗi của nhà cúng ứng phải bảo hành. Nguyên đơn cho rằng Công ty cho thuê tài chính đã mua bảo hiểm không đầy đủ, cụ thể là không mua bảo hiểm lắp đặt cho màn hình LED. Công ty cho thuê tài chính đã vi phạm nghĩa vụ mua bảo hiểm lắp đặt cho màn hình. Vì vậy, việc không nhận được tiền bồi thường của Công ty bảo hiểm là do lỗi của Công ty cho thuê tài chính, Công ty cho thuê tài chính phải tự chịu trách nhiệm. - Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã đề nghị được chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn do màn hình LED bị hỏng không thể phục hồi sửa chữa được và không mang lại bất kỳ doanh thu nào nhưng Công ty cho thuê tài chính không những không cho chấm dứt hợp đồng mà còn tiếp tục đòi tiền thuê cũng với lãi suất nợ quá hạn. Công ty Thái Bình Dương cũng đã yêu cầu Công ty cho thuê tài chính với tư cách là chủ sở hữu của màn hình LED phải có trách nhiệm thu hồi tiền từ tập đoàn Kumgang theo phán quyết của trọng tài quốc tế, song Công ty cho thuê tài chính đã từ chối trách nhiệm. Để đảm bảo quyền lợi của mình, Công ty Thái Bình Dương đã buộc phải làm đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu được giải quyết như đã nêu tại phần đơn khởi kiện. Quan điểm của bị đơn - Đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn theo Điều 12 khoản 3 của hợp đồng với điều kiện bên thuê phải trả đủ số tiền đã thuê theo hợp đồng theo Điều 12 khoản 4 của hợp đồng cho thuê tài chính và theo quy định tại Điều 28 khoản 4 của Nghị định số 14/NĐ-CP. - Công ty cho thuê tài chính đã làm hết trách nhiệm về việc làm thủ tục mua bảo hiểm, cụ thể lả mua bảo hiểm thiết bị điện tử tức là bảo hiểm đối với tài sản cho thuê theo 11 đúng quy định trong hợp đồng. Đối với vấn đề màn hình LED hỏng là do chất lượng sản phẩm của nhà sản xuất và được thỏa thuận trong điều kiện bảo hành, không phải lỗi của Công ty cho thuê tài chính. Vấn đề bảo hành đã được giải quyết trong phán quyết của trọng tài. - Phán quyết trọng tài đã có hiệu lực pháp luật, người thi hành phải là Công ty Thái Bình Dương và tập đoàn Kumgang. Công ty cho thuê tài chính không thể thi hành được và không có nghĩa vụ đòi nợ Công ty Kumgang. - Về việc xin miễn lãi, theo quy chế của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, thì Công ty cho thuê tài chính và Ngân hàng có thể xem xét miễn lãi nhưng phải có hồ sơ trình bày cụ thể. Phía Công ty Thái Bình Dương chưa bao giờ lập hồ sơ xin miễn lãi để Công ty cho thuê tài chính xem xét. Vì các lý do trên đề nghị Tòa án xem xét + Bác yêu cầu của Công ty Thái Bình Dương. + Hoặc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính với điều kiện Công ty Thái Bình Dương phải trả hết tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính. Luật sư Nguyễn Hoàn Thành – Đoàn luật sư Hà Nội nêu quan điểm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương như sau - Theo Nghị định số 16/CP của Chính phủ quy định bản chất của hợp đồng cho thuê tài chính là việc cho thuê máy móc, thiết bị, tài sản. Đây là hoạt động tín dụng có phân chia rủi ro cho các bên. Vì vậy, đã quy định trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về bên cho thuê. Điều kiện để chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính là tài sản bị hỏng, không sửa chữa được là phù hợp với quy định của Nghị định 16/CP của Chính phủ. Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐ-CTTC và màn hình LED đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm – Bộ Tư pháp. Như vậy quyền sở hữu màn hình LED thuộc về Công ty tài chính. Trách nhiệm phải mua bảo hiểm của Công ty cho thuê tài chính đã không thực hiện đầy đủ do cách hiểu không đúng. Nếu trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương không chấp nhận phí bảo hiểm thì chẳng lẽ Công ty tài chính đã không mua bảo hiểm sao? 12 Ngoài ra, Công ty cho thuê tài chính đã không mua bảo hiểm lắp đặt mà theo Nghị định số 52/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định việc lắp đặt là bắt buộc phải mua bảo hiểm. Trong trường hợp này Công ty cho thuê tài chính đã không thực hiện việc mua bảo hiểm lắp đặt và màn hình LED bị hỏng hoàn toàn do lỗi của việc lắp đặt. Đề nghị xem xét sự khác nhau giữa Công ty cho thuê tài chính với các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Chính Công ty cho thuê tài chính cũng thừa nhận là tại đăng ký kinh doanh của Công ty không có lĩnh vực cho vay tiền tệ. Điều này cũng phù hợp với Nghị định 16/CP của Chính phủ. Như vậy cho thuê tài chính là cho thuê một tài sản và được trả một khoản theo từng thời kỳ để đảm bảo hết thời gian thuê thì người đi thuê đã trả cho người cho thuê hết giá trị tài sản và một khoản lợi nhuận. Tại bản án số 106/2005/KD-TM-ST ngày 08, 06, 15/12/2005, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định Căn cứ Điều 29 khoản 1 điểm e; Điều 130; Điều 131; Điều 159; Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ các Điều 61; 62; 63 Luật các tổ chức tín dụng. Căn cứ Điều 27 khoản 3; Điều 28 khoản 4 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ. Căn cứ Điều 15 Nghị định số 70/CP của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án quyết định 1- Chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐ-CTTC ngày 10/4/2002 giữa Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương kể từ ngày 15/12/2005. 2- Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn và quảng cáo Thái Bình Dương phải trả cho Công ty cho thuê tài chính toàn bộ số tiền còn lại là 2 tỷ đồng tiền gốc và phí thuê tài chính là đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty cho thuê tài chính đối với khoản lãi quá hạn trong vụ kiện này. Đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 25/9/2002 của Công ty cho thuê tài chính đối với màn hình LED hết hiệu lực từ ngày 20/12/2004. Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương có quyền thực hiện phán quyết số 10/03 ngày 13 03/6/2004 của Trung tâm trong tài quốc tế bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam VIAC. 3- Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự. Ngoài ra án sơ thẩm còn có quyết dịnh về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 28/12/2005, bị đơn – Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương có kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 106/2005/KDTM-ST ngày 06, 08, 15/12/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, ý kiến củ các Luật sư và các đương sự; XÉT THẤY Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương gọi tắt là Công ty Thái bình Dương – Bên B vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện. Cho tới khi phiên tòa hôm nay bên nguyên và bị đơn đều khẳng định Hợp đồng số 44/20002/HĐ-CTTC ký ngày 10/4/2002 giữa 2 bên là hợp đồng cho thuê tài chính được ký trên cơ sở tự nguyện và thiện chí. Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa phúc thẩm xử xác định - Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐ-CTTC chấm dứt trước thời hạn kể từ ngày màn hình LED gặp sự cố không thể khắc phục được và Công ty TBD nộp đơn khởi kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ngày 30/4/2003. Công ty cho thuê tài chính Bên A phải có trách nhiệm thu hồi nợ từ tập đoàn Kumgang và thanh toán cho Công ty Thái Bình Dương đồng, do bên cho thuê tài chính mua bảo hiểm không đầy đủ. Đại diện của Công ty cho thuê tài chính đề nghị - Bác yêu cầu của Công ty Thái Bình Dương. - Hoặc chấm dứt hợp đồng cho thuế tài chính với điều kiện Công ty Thái Bình Dương phải trả hết tiền cho Công ty cho thuê tài chính. 14 1- Xét yêu cầu của nguyên đơn xin chấm dứt Hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn và miễn lãi cho màn hình hỏng không thể phục hồi sửa chữa được và thời điểm chấm dứt hợp đồng là ngày nguyên đơn gửi đơn ra Trung tâm trọng tài quốc tế. Án sơ thẩm đã căn cứ vào Điều 61 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997, Điều 17 Nghị định 16/2006/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ và chính các thỏa thuận của hai bên ký kết tại hợp đồng khẳng định Hợp đồng cho thuê tài chính vì Công ty Thái Bình Dương là hợp đồng không hủy ngang. Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nói trên. Theo quy định ở điểm 3, 4 Điều 27 và khoản 4 Điều 28 Nghị định 16/NĐ-CP; ý kiến đó là đúng pháp luật, án sơ thẩm xử xác nhận việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính kể từ ngày xử sơ thẩm là không có sơ sở. Mà cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn lấy ngày Công ty cho thuê tài chính biết tài sản cho thuê hỏng không thể phục hồi sửa chữa và ủy quyền cho Công ty Thái Bình Dương gửi đơn đến Trung tâm trọng tài quốc tế. Đó là ngày 24/7/2003 chứ không phải là ngày 30/4/2003 như đơn khởi kiện của Công ty Thài Bình Dương. 2- Công ty Thái Bình Dương còn yêu cầu Công ty cho thuê tài chính có trách nhiệm thu hồi nợ từ Công ty Kumgang và thanh toán cho Công ty Thái Bình Dương đồng do bên cho thuê tài chính mua bảo hiểm không đầy đủ. Án sơ thẩm cho rằng theo quy định ở các Điều 10, 11 của Hợp đồng cho thuê tài chính thì bị đơn có trách nhiệm mua bảo hiểm, còn bên nguyên đơn có trách nhiệm thanh toán tiền phí bảo hiểm. Hợp đồng chỉ thỏa thuận bên A làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê, ngoài ra không thỏa thuận mua loại hình bảo hiểm nào khác. Ngày 12/7/2002 bên A đã làm thủ tục mua bảo hiểm thiết bị điện tử, chuyển cho bên B bản hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận cảo hiểm thiết bị điện tử, ngày19/7/2002 bên A gửi cho bên B giấy đề nghị chuyển tiền phí bảo hiểm tài sản, trước các sự kiện trên Công ty Thái Bình Dương không có ý kiến gì. Ngày 02/7/2003 Công ty bảo hiểm Hà Nội có quan điểm về việc hư hỏng màn hình LED “Tổn thất này không thuộc phạm vi bảo hiểm mà thuộc trách nhiệm của người bán sản phẩm”. Tại bản hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002 có ghi thỏa thuận tại điểm 7 Điều 10 như sau “Bên A không chịu trách nhiệm về việc tài sản không được 15 giao hoặc giao không đúng với các điều kiện do bên B đã thỏa thuận với bên cung ứng”. Như vậy với lập luận trên án sơ thẩm kết luận là Công ty cho thuê tài chính đã mua bảo hiểm tài sản là thực hiện đúng quy định của hợp đồng; Công ty cho thuê tài chính không vi phạm nghĩa vụ mua bảo hiểm, kết luận đó là đúng pháp luật. Do đó yêu cầu của Công ty Thái Bình Dương kiện đòi Công ty cho thuê tài chính đồng do không mua bảo hiểm đầy đủ là không thể chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty cho thuê tài chính khẳng định chưa bào giờ kiện đòi Công ty Thái Bình Dương về khoản tiền gốc và lãi trong Hợp đồng cho thuê tài chính, án sơ thẩm phán quyết buộc Công ty Thái Bình Dương phải bồi thường cho Công ty cho thuê tài chính là đã giải quyết việc mà đương sự không yêu cầu trái với quy định ở khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Cần hủy phán quyết về phần này của án sơ thẩm. - Về yêu cầu Công ty cho thuê tài chính phải có trách nhiệm thu hồi nợ từ tập đoàn Kumgang theo phán quyết trọng tài đã có hiệu lực pháp luật. Như phân tích trên, Công ty Thái Bình Dương phải chịu trách nhiệm về sản phẩm khi ký hợp đồng, nhận tài sản với nhà cung ứng. Mặt khác theo phán quyết của trọng tài Công ty Thái Bình Dương là nguyên đơn trong vụ kiện và Công ty Kumgang là người phải trả tiền cho Công ty Thái Bình Dương. Công ty cho thuê tài chính không phải là chủ thể trong hợp đồng mua bán và trong vụ kiện trước trọng tài. Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty Thái Bình Dương còn yêu cầu Công ty cho thuê tài chính thực hiện quyền quản lý tài sản là màn hình LED mà hiện nay Công ty Thái Bình Dương đang phải chi phí quản lý. Xét thấy yêu cầu này của nguyên đơn không có trong đơn khởi kiện và án sơ thảm chưa xử nên cấp phúc thẩm không xem xét. Vì các lẽ trên, Áp dụng khoản 2 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự QUYẾT ĐỊNH Sửa án sơ thẩm 16 Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 29; khoản 1 Điều 5; Điều 130; Điều 131; Điều 159; Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự Điều 61; 62; 63 Luật Các tổ chức tín dụng Khoản 3 Điều 27, khoản 4 Điều 28 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ Xử 1- Chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐ-CTTC ngày 10/4/2002 giữa Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương kể từ ngày 24/7/2003. 2- Bác yêu cầu của Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương kiện đòi Công ty cho thuê tài chính đồng. 3- Hủy quyết định của án sơ thẩm phần buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương phải trả cho Công ty tài chính 2 tỷ đồng tiền gốc và phí thuê tài chính là đồng vì án sơ thẩm đã giải quyết ngoài phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Công ty Thái Bình Dương không phải chịu án phí kinh tế phúc thẩm. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. Nơi nhận TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÖC THẨM - TAND Tối cao; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÕA - tỉnh Khánh Hòa; - Các đương sự theo địa chỉ; Đã ký - Lưu HS. Hà Tiến Triển 17 Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Bên A, ký hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HD-CTTC với Công ty trách nhiệm hữu hạn và quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương Bên B nội dung cho thuê một màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các điốt phát quang như bên B đề nghị, mục đích sử dụng để kinh doanh các dịch vụ quảng cáo bằng màn hình. Địa điểm đặt màn hình tại đường Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa. * Việc thuê và cho thuê được thỏa thuận trên nguyên tắc - Bên B lựa chọn tài sản, nhà cung ứng, ký thỏa thuận nguyên tắc với nhà cung ứng với các điều kiện như chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hành…Bên B phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các vấn đề đã hỏa thuận với nhà cung ứng. - Bên A ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung ứng căn cứ vào thỏa thuận nguyên tắc đã được ký giữa bên B và nhà cung ứng, tài sản được bàn giao giữa 3 bên, cả 3 bên sẽ ký vào biên bản nghiệm thu tài sản. - Căn cứ đề nghị thanh toán của bên B và biện bản nghiệm thu tài sản bên A sẽ thanh toán cho nhà cung ứng tổng số tiền đầu tư thiết bị. * Thời hạn thuê là 30 tháng, kể từ ngày bên A thành toán món đầu tiên cho nhà cung ứng cho đến khi bên B trả hết tiền thuê và phí cho bên A. * Bên B có nghĩa vụ trả đầy đủ, đúng hạn tiền thuê và lãi suất quá hạn nếu có theo đúng lịch thanh toán được ký kết kèm theo hợp đồng; thanh toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, bảo hiểm đối với tài sản thuê và các chi phí khác theo quy định của Nhà nước. Ngày 01/3/2002 dựa trên thỏa thuận giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc, dựa trên Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002 ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính đã ký “ Hợp đồng ủy thác nhập khẩu”. Theo đó Công ty cho thuê tài chính ủy thác cho Công ty quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương ký kết hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc và làm các thủ tục nhập khẩu thiết bị màn hình LED nêu trên. Phí ủy thác 0%. 18 * Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng ủy thác nhập khẩu. Ngày 12/4/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã ký hợp đồng mua bán bảng thông tin LED với người bán là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Thời gian bảo hành là 02 năm kể từ ngày hoàn thành lắp đặt và bàn giao bảng LED cho bên mua. Trong thời gian bảo hành, bên bán có trách nhiệm sửa chữa ngay những hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi hết thời hạn bảo hành và nếu có tranh chấp sẽ chọn trọng tài thương mại quốc tế là cơ quan tài phán. Ngày 03/8/2002 đại diện của ba bên bên bán, bên mua và bên cho thuê đã ký biên bản bàn giao lắp đặt màn hình LED. Các bên xác nhận tài sản bàn giao và lắp đặt phù hợp với quy định của hợp đồng mua bán và hợp đồng cho thuê tài chính. Màn hình đã chạy thử tốt. Ngày 12/7/2002 Công ty cho thuê tài chính cũng đã làm thủ tục mua bảo hiểm cho màn hình LED nêu trên với tổng số phí là VNĐ. Thời hạn bảo hiểm là 30 tháng kể từ ngày 12/7/2002 đến hết ngày 12/01/2005. Phía Công ty Thái Bình Dương đã làm các thủ tục thanh toán tiền phí bảo hiểm đối với Công ty cho thuê tài chính. Cuối tháng 11/2002 màn hình LED bắt đầu bộc lộ nhiều sai sót về chất lượng. Bên bán là Công ty Kumgang đã cho thay thế, sửa chữa nhưng màn hình vẫn bị hỏng liên tiếp. Nguyên nhân gây ra sự cố màn hình cũng đã được Công ty Kumgang xác định là do màn hình không khép kín và để nước mưa chảy vào trong gây hỏng các đèn điôt và các bộ mạch điện bên trong. Công ty Thái Bình Dương đã làm đơn đề nghị bảo hiểm Hà Nội phải đền bù thiệt hại, sau khi giám định, bảo hiểm Hà Nội đã có văn bản số ngày 2/7/2003 từ chối đền bù với lý do “ Tổn thất là do chất lượng linh kiện không phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam…Tổn thất này không thuộc phạm vi bảo hiểm mà thuộc trách nhiệm của người bán sản phẩm”. Ngày 30/7/2003 Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã tiến hành khởi kiện tập đoàn Công ty Kumgang AD Systen Corporation ra 19 Trung tâm trọng tài quốc tế, bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, yêu cầu Công ty Kumgang phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các thiệt hại xảy ra do chất lượng hàng cung cấp quá kém, buộc Công ty Kumgang phải nhận lại màn hình và hoàn trả lại tiền mua màn hinh cho Công ty Thái Bình Dương, đồng thời còn phải chịu bồi thường thiệt hại. Ngày 03/6/2004 Trung tâm trọng tài quốc tế đã ra phán quyết vụ kiện số 10/03 theo đó tập đoàn Kumgang phải hoàn trả số tiền mua màn hình là USD và bồi thường thiệt hại thực tế cho Công ty Thái Bình Dương là VNĐ. Công ty Kumgang đã có đơn gửi đến Tòa án xin hủy phán quyết của Trọng tài. Ngày 10/01/2004 Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao đã xử bác đơn yêu cầu xin hủy quyết định trọng tài vụ kiện số 10/03 được công bố ngày 03/6/2004 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương với Công ty Kumgang AD System Corporation – Hàn Quốc có hiệu lực. Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã gửi đơn đến cơ quan thi hành án Hà Nội. Ngày 28/3/2005 Phòng thi hành án Hà Nội đã ra quyết định thi hành án số 48/2005 cho thi hành phán quyết của Trọng tài vụ kiện số 10/03 nêu trên. Tuy nhiên ngày 11/7/2005 cơ quan thi hành án Hà Nội đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án vì lý do bên phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Sau đó, Công ty Thái Bình Dương đã quyết định khởi kiện Công ty cho thuê tài chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã thụ lý, giải quyết và ra bản án sơ thẩm số 106/2005/KDTM-ST ngày 06, 08, 15/12/2005. Ngày 28/12/2005, bị đơn – Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Yêu cầu của các bên trong vụ án Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn – Công ty Thái Bình Dương yêu cầu Tòa phúc thẩm xử xác định 20 - Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐ-CTTC chấm dứt trước thời hạn kể từ ngày màn hình LED gặp sự cố không thể khắc phục được và Công ty TBD nộp đơn khởi kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, ngày 30/4/2003. - Công ty cho thuê tài chính Bên A phải có trách nhiệm thu hồi nợ từ tập đoàn Kumgang và thanh toán cho Công ty Thái Bình Dương đồng, do bên cho thuê tài chính mua bảo hiểm không đầy đủ. Bị đơn, Công ty cho thuê tài chính yêu cầu Tòa án - Bác yêu cầu của Công ty Thái Bình Dương. - Hoặc chấm dứt hợp đồng cho thuế tài chính với điều kiện Công ty Thái Bình Dương phải trả hết tiền cho Công ty cho thuê tài chính. Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án Từ nội dung của vụ án, để có thể đưa ra phán quyết cho yêu cầu của các bên, Bản án của Tòa án cần giải quyết 3 vấn đề pháp lý cơ bản trong vụ án - Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn - Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết - Vấn đề pháp lý về trách nhiệm của Công ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tậ data-ad-slot="7919569241" data-ad-format="auto">việc cho thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo những quy định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên. 2. Hợp đồng cho thuê tài chính phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý khi hợp đồng chấm dứt trước hạn. 3. Bên thuê và bên cho thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng cho thuê tài chính trừ những trường hợp được nêu trong Điều 27 của Nghị định này.” Khoản 3 điều 27, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. “Điều 27. 3. Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.” Khoản 4 điều 28 nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. “Điều 28. 4. Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo khoản 3 Điều 27 của Nghị định này, bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiểm tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán.” III. PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã xem xét và chấp nhận yêu cầu của cả hai bên nguyên đơn và bị đơn về việc đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐCTTC ngày 10/4/2002 trước thời hạn theo quy định tại Khoản 3 Điều 12 của Hợp đồng. Tại khoản 3 Điều 12 của hợp đồng đã quy định rõ “Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa”. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn trong trường hợp này là phù hợp với quy định của pháp luật về việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn được quy định tại Khoản 3 Điều 27 nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Mặc dù đồng quan điểm với Tòa án cấp sơ thẩm về việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn song Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về ngày chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nêu trên. Cụ thể tại bản án sơ thẩm, cơ quan xét xử đã quyết định ngày chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính là ngày xét xử sơ thẩm, tức ngày 30/4/2003. Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng quyết định này của Hội đồng xét xử sơ thẩm là không có cơ sở và cho rằng ngày chấm dứt hợp đồng phải là ngày 24/7/2003, tức là ngày Công ty cho thuê tài chính biết tài sản cho thuê hỏng không thể phục hồi sửa chữa và ủy quyền cho Công ty Thái Bình Dương gửi đơn đến Trung tâm trọng tài quốc tế. Về việc xử lý hậu quả khi chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định “Tại phiên Tòa phúc thẩm Công ty cho thuê tài chính khẳng định chưa bao giờ kiện đòi Công ty Thái Bình Dương về khoản tiền gốc và lãi trong Hợp đồng cho thuê tài chính, án sơ thẩm phán quyết buộc Công ty Thái Bình Dương phải bồi thường cho Công ty cho thuê tài chính là đã giải quyết việc mà đương sự không yêu cầu trái với quy định của khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự…”. Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định hủy phần xử lý 24 hậu quả khi chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên. Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án Theo quan điểm của chúng tôi, Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án nhân dân Hà Nội và Tòa án cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định chấp nhận yêu cầu của các bên về việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn là có cơ sở và đúng quy định pháp luật. Mặc dù, Khoản 3 Điều 61 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 có quy định rằng hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang, song Khoản 3 Điều 17 và Điều 27 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP quy định những trường hợp ngoại lệ, các bên được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 12 của hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐCTTC đã quy định rõ “Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa”. Đối với vụ án đang được giải quyết, màn hình LED tài sản cho thuê đã bị hư hỏng không thể phục hồi sửa chữa được. Như vậy hợp đồng cho thuê tài chính giữa Công ty Thái Bình Dương và Công ty cho thuê tài chính đã thỏa mãn điều kiện cần để được chấm dứt trước thời hạn khi thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 27 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP và theo Khoản 3, Điều 12 của hợp đồng đã ký kết. Trong quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn và bị đơn đều có yêu cầu chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn, đây là điều kiện đủ để Tòa án cấp phúc thẩm quyết định chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐCTTC giữa Công ty Thái Bình Dương và Công ty cho thuê tài chính. Cách xác định ngày chấm dứt hợp đồng của cơ quan xét xử phúc thẩm trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lí. Vì theo qui định tại Khoản 3 Điều 27 nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì cơ sở pháp lí làm hợp đồng cho thuê tài chính bị chấm dứt là do “tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa”, cụ thể trong trường hợp này là do tài sản cho thuê bị hỏng không thể phục hồi sửa chữa được. Như vậy, ngày chấm dứt hợp đồng phải là ngày mà một trong hai bên của hợp đồng phát hiện ra sự hư hỏng này đến mức không thể sửa chữa phục hồi được và thông báo cho phía còn lại được biết. 25 Bản án phúc thẩm chưa giải quyết vấn đề hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn. Nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn đã được thỏa thuận tại mục khoản 4 Điều 12 của hợp đồng, cụ thể “Trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo khoản 3 của Điều này, sau khi bên B Công ty Thái Bình Dương đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên A Công ty cho thuê tài chính theo hợp đồng thuê và khi bên A Công ty cho thuê tài chính đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán thì bên A Công ty cho thuê tài chính sẽ hoàn trả lại cho bên B Công ty Thái Bình Dương số tiền bảo hiểm tài sản”. Thỏa thuận trên của các đương sự phù hợp với quy định tại Khoản 4 Điều Nghị định số 16/2001/NĐ-CP “Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo khoản 3 Điều 27 của Nghị định này, bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiểm tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán”. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán tiền thuê gốc và lãi theo hợp đồng của Công ty Thái Bình Dương đã được hai bên thỏa thuận trước và là hậu quả pháp lý tất yếu của việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn được quy định tại khoản 4 Điều 28 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Công ty cho thuê tài chính đều khẳng định chỉ chấp nhận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với điều kiện Công ty Thái Bình Dương phải thanh toán hết tiền thuê gốc và phí thuê theo hợp đồng. Do vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm buộc Công ty Thái Bình Dương thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho Công ty cho thuê tài chính là “đã giải quyết việc mà đương sự không yêu cầu trái với quy định của khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Cần hủy phán quyết về phần này của án sơ thẩm ” là không có căn cứ pháp luật. Bản án cấp phúc thẩm vì thế chỉ mới xử chấm dứt hợp đồng trước thời hạn mà không giải quyết hậu quả tất yếu, kéo theo của việc chấm dứt hợp đồng. Phán quyết trong bản án cấp sơ thẩm buộc Công ty Thái Bình Dương phải trả cho Công ty cho thuê tài chính số tiền gốc còn lại là 2 tỷ đồng và phí thuê tài chính là đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Số hiệu242/2006/KDTM-PTTiêu đềBản án tranh chấp hợp đồng tín dụngNgày ban hành21/11/2006Cấp xét xửPhúc thẩmLĩnh vựcKinh tếTÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAOTÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI——————Bản án số242/2006/KDTM-PTNgày 21/11/2006V/v tranh chấp hợp đồng tín dụngCỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc ——————————— DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMTÒA PHÚC THẨMTÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘIVới thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm cóThẩm phán – Chủ tọa phiên tòa Ông Cáp Văn Chinh;Các Thẩm phán Ông Đào Văn Tiến;Ông Nguyễn Huy ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Phạm Trí Trung, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà 21 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số42/2006/TL-KDTM ngày 14 tháng 8 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự* Nguyên đơn Ngân hàng Công thương Việt Nam;Trụ sở 108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà diện ông Tô Văn Chánh – Giám đốc Ngân hàng Công thương chi nhánh O, được Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm.* Bị đơn Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng;Trụ sở 201 phố Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà diện ông Nguyễn Thanh Hùng, được tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc luật sư Phan Thị Hương Thủy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tại phiên THẤYNgày 07-3-1995, Công ty xuất nhập khẩu sản xuất cung ứng vật tư, bộ Giao thông vận tải nay chuyển đổi là Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng có thư bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex là đơn vị thuộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và tài khoản ngoại tệ số 362-111-37-0333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ sự bảo lãnh này, Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau1. Ngày 29-7-1995 mở L/C số 0104106/T95LC91 trả chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí chuyển tiền với số tiền là USD. Từ ngày 23-8-1996 đến ngày 15-11-1996 đã trả được USD. Đến nay còn nợ gốc Khế ước số 95000634 ngày 02-10-1995 vay số tiền là đồng hai tỷ năm trăm triệu đồng và đã trả lãi trong hạn được Khế ước số 9500034 ngày 29-11-1995 vày đồng ba tỷ đồng. Chưa trả được gốc và lãi quá Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 vay đồng sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng, hợp đồng ngoại tệ còn nợ 15-4-1997 Ngân hàng Nhà nước có công văn số 109 và ngày 26-4-1997 Ngân hàng Công thương Việt Nam có công văn số 867 cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng được khoanh nợ 5 năm là được trừ lãi đã thu vào gốc là đồng, Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã trả được đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau khoanh nợ là đồng và thời gian khoanh nợ, ngày 02-02-2004 Ngân hàng Công thương đã đến Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex lập biên bản nhận nợ và hai bên đã xác nhận với nhau Sài Gòn Vietracimex còn nợ Ngân hàng là đồng tiền gốc và đồng tiền lãi quá hạn. Về ngoại tệ nợ gốc USD, lãi nợ quá hạn đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án Hà Nội, nguyên đơn đều yêu cầu Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là người bảo lãnh cho chi nhánh Sài Gòn Vietracimex vay số tiền trên của Ngân hàng từ năm 1995 đến nay chưa thanh toán phải có trách nhiệm thanh toán cho phía ngân hàng toàn bộ tiền gốc và lãi quá bị đơn ông Vũ Đức Toàn đại diện cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng trình bày ông nhất trí với lời khai của ông Đặng Đình Dũng – Giám đốc chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã trình bày tại Tòa án Hà Nội và xác nhận số nợ của chi nhánh Sài Gòn tại biên bản đối chất và hòa giải không thành ngày 07-9-2004. Trước kia Tổng công ty có thư bảo lãnh cho chi nhánh vay tiền của Ngân hàng Công thương, đã trả được một số và đã trả được khoanh nợ 5 năm, đến nay còn nợ đồng Việt Nam và USD và lãi suất quá hạn. Nhưng nay Tổng công ty không chấp nhận trả lãi, đề nghị Ngân hàng xem xét vì số tiền này Công ty đã bị một số cán bộ gây thất thoát, đã bị xét xử theo pháp luật và đến nay chưa bồi thường cho Công ty nên Công ty chưa có thể trả lại cho Ngân hàng và đề nghị Ngân hàng xem xét lãi suất quá trình giải quyết vụ kiện bị đơn chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần hóa. Vì thế ngày 24-01-2005 Tòa án Hà Nội ra quyết định tạm đình chỉ số 02 với lý do chờ kết quả cơ quan khác giải quyết rồi mới giải quyết khi Tòa án Hà Nội có quyết định tạm đình chỉ ngày 27-01-2005 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã kháng 22-02-2006, Ngân hàng Công thương Việt Nam có đơn xin rút kháng cáo tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà 06-3-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và giao hồ sơ về Tòa án Hà Nội giải quyết tiếp việc kiện. Ngày 16-3-2006 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết tiếp vụ kiện bản án sơ thẩm số46/2006/KDTM-ST, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết địnhCăn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004,Căn cứ các Điều 361, 362, 388 Bộ luật dân sự năm 2005,Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và NĐ 70/CP của Chính phủ quy định án phí, xử1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam, toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng.Sau khi án có hiệu lực pháp luật, bên thanh toán chưa trả thì phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của pháp Bác các yêu cầu khác của các đương án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng.Tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp 19-6-2006 người đại diện Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là ông Võ Nhật Thắng kháng cáo cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết của vụ án, không đúng pháp luật, đề nghị xem xét toàn bộ vụ án sơ 20-6-2006 người đại diện Ngân hàng Công thương Việt Nam là ông Tô Văn Chánh kháng cáo cho rằng cách tính số tiền lãi trong phần quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng với các quy định pháp luật về tín dụng, đề nghị xem xét THẤYBản án dân sự số 46 ngày 2, 5 tháng 6 năm 2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là dựa trên cơ sở chứng cứ. Có việc hai bên ký kết các hợp đồng tín dụng được lập dưới hình thức khế ước nhận nợ, gồm 03 khế Khế ước số 9500634 ngày 02-10-1995 số tiền vay nợ là 2,5 tỷ đồng. Đã trả được 625 triệu đồng còn nợ 1,875 tỷ Khế ước nhận nợ số 9500934 số tiền là 3 tỷ đồng chưa trả.3. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 số tiền là 1,5 tỷ đồng chưa trả.Ngoài ra 03 khế ước nhận nợ trên còn một khoản nợ của thư tín dụng là USD đã trả USD còn nợ đối chiếu các khoản nợ nêu trên đã được hai bên bàn bạc và thống nhất với nhau trong các buổi làm việc được lập thành biên bản có trong hồ sơ. Và tại các biên bản hòa giải không thành cũng đều có ghi rõ các khoản nợ đó. Từ đó mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định buộc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn khoản tiền còn nợ cả gốc và phiên tòa phúc thẩm hôm nay phía bị đơn đã phản bác lại quyết đinh của án sơ thẩm cụ thể những vấn đề sauThứ nhất là về chủ thể trong quan hệ dân sự phía bị đơn cho rằng các văn bản bảo lãnh của Tổng công ty chỉ bảo lãnh cho đến hết thời hạn khi mà công ty đã chuyển sang hợp nhất là ngày 27-11-1995. Còn các khế ước ký sau ngày đó là không có hiệu đề nữa là đối với việc bảo lãnh thư tín dụng không thuộc trong diện bảo lãnh của văn bản bảo lãnh 142 của Tổng công ty đối với chi nhánh, cho nên Tổng công ty không chịu trách thấy trong quan hệ về việc dân sự trong vụ án này giữa Tổng công ty và công ty chi nhánh phải được xét theo nguyên tắc thực hiện của Luật Doanh nghiệp năm 1995. Luật có hiệu lực từ Điều 19 của luật có quy định – chi nhánh của doanh nghiệp Nhà nước không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với chi nhánh của doanh thì mọi quy định của Tổng công ty đối với chi nhánh mà trái với quy định của điều luật đều không được pháp luật thừa nhận – mà chỉ có giá trị trong nội bộ của Tổng công ty mà thôi. Đối chiếu với trường hợp cụ thể này thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là bị đơn trong vụ án này phải chịu trách nhiệm dân sự với mọi trường hợp của chi nhánh trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình, còn mọi quy định về trách nhiệm mà chi nhánh làm sai thì chi nhánh chịu trách nhiệm đối với Tổng công phân tích trên thấy án sơ thẩm xác định Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu trách nhiệm trả nợ gốc đối với Ngân hàng Công thương chi nhánh I thành phố Hồ Chí Minh về cả 03 khế ước và khoản nợ theo thư tín dụng là đúng vì các khế ước và thư tín dụng đều được lập kể từ sau ngày Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1999 có hiệu lực thi việc quy định tại Điều 19 của Luật doanh nghiệp Nhà nước đã viện dẫn ở trên thì nay Tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên vì tại Điều 8 Nghị đình số 187/2004 ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần của Chính phủ có quy định tại Điều 8 Nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty cổ phần được chuyển đổi từ Công ty Nhà nước“1. …2. Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để tổ chức sản xuất, kinh doanh kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của Công ty Nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”Thứ hai xét về nội dung để quy kết có trách nhiệm trả nợ thì thấyTại phiên tòa cũng như những chứng cứ mà phía bị đơn xuất trình đều đã được xem xét tại phiên tòa. Cụ thể các khế ước nhận nợ là đều có, có việc chi nhánh đã nhận tiền vay bằng séc. Sau đó nhập về quỹ của Công ty và tiếp đó chuyển về Ngân hàng Công thương chi nhánh IV. Tiếp đó chuyển trả nợ vay về Ngân hàng Công thương chi nhánh I, nhưng tất cả số tiền chuyển trả theo cách lập phiếu ủy nhiệm chi, nhưng là chuyển trả vào khoản nợ vay trước đó. Cụ thể khi vay thì vay từ tài khoản có ký hiệu …B, khi trả thì chuyển về tài khoản có ký hiệu …A, hai tài khoản này khác nhau nên không được coi là đã trả nợ xong, vì trên thực tế thì chi nhánh còn nợ Ngân hàng Công thương chi nhánh I nhiều món nợ trước đó chưa trả. Vì theo nghiệp vụ ngân hàng quy định mỗi khế ước vay đều có mã số tài khoản của khế ước đó nên khi vay ở khế ước nào thì khi trả phải trả đúng vào khế ước đó mới được công nhận là có khoản thanh toán khoản tiền nợ mở thư tín dụngXem xét trên thực tế thì Ngân hàng đã thanh toán trả chủ hàng Hàn Quốc toàn bộ số tiền theo như hợp đồng. Còn phía Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex mới thanh toán trả về cho Ngân hàng 03 phiếu theo như Ngân hàng đã xuất trình. Nay phía bị đơn chỉ chứng minh được mới chuyển trả tiền về đến Ngân hàng Công thương IV nhưng cũng vẫn chưa đủ, nên không có căn cứ là đã thanh toán xong mà chỉ có căn cứ như án sơ thẩm đã quyết về khoản nợ này là chính cứ vào việc chứng minh rằng những chứng cứ mà phía nguyên đơn xuất trình thì thấy việc thừa nhận của bị đơn trước đây trong quá trình xây dựng hồ sơ trong các lời khai và trong các buổi hòa giải đều thừa nhận là còn nợ các khoản tiền theo như án sơ thẩm đã quy kết là hoàn toàn khoản tiền lãi bản án sơ thẩm đã căn cứ vào đề nghị của phía nguyên đơn trên cơ sở tại các đơn khởi kiện và các văn bản mà phía ngân hàng đã dựa trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước để tính mức lãi suất là có căn cứ nay phía Ngân hàng đề nghị được tính với mức lãi suất cao hơn theo một mức như ở tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm là không thể chấp nhận được mà cần giữ nguyên khoản tiền lãi như án sơ thẩm đã quyết các lẽ trên,Căn cứ vào khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân ĐỊNHKhông chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn và đơn kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.– Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.– Căn cứ các Điều 361, 362, 363, 388 Bộ luật dân sự năm 2005.– Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và Nghị định 70 của Chính phủ quy định về án Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam toàn bộ số tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng, tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám mươi ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng.Kể từ ngày bản có có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong bản án tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi Bác các yêu cầu khác của các đương án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng.Ngân hàng Công thương Việt Nam được lấy lại dự phí kháng cáo đã nộp đồng Mười lăm triệu đồng tại tài khoản số kho bạc Hà Nội của Phòng thi hành án dân sự Hà đương sự kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm dân sự kinh tế mỗi đương sự là đồng. Được trừ vào khoản tiền dự phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007395 ngày 26-6-2006 và biên lai số 007389 ngày 19-6-2006 của Phòng thi hành án thành phố Hà án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên nhận– TAND thành phố Hà Nội– VKSNDTC Viện PT1– VKSND thành phố Hà Nội– CQTHADS Hà Nội– Nguyên đơn theo đ/c– Bị đơn theo đ/c– Lưu 2b ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨMTHẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒACáp Văn ChinhĐã ký Ngày đăng 11/02/2015, 1958 Dịch vụ cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vượt trội đã trở thành giải pháp kịp thời và hợp lý cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp chọn đi thuê tài chính hơn càng hình thức cấp tín dụng truyền thống khác. Tuy nhiên, sự phức tạp trong thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ cho thuê tài chính, cụ thể là bên đi thuê, bên cho thuê, và bên bán tài sản là điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý. Sự cẩn thận, toàn diện khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng cho thuê tài chính cũng là điều mà tất cả các doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm. Những rủi ro từ hợp đồng cho thuê tài chính, nếu không được tiên liệu giải quyết từ khi thỏa thuận hợp đồng sẽ chính là con dao hai lưỡi với các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn về vốn nay lại phải gánh chịu thêm thiệt hại từ rủi ro của hợp đồng cho thuê tài vọng bài bình luận sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong khuôn khổ chương trình học môn Luật Ngân hàng. MỤC LỤC Trang I. LỜI NÓI ĐẦU 2 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án 4 Tóm tắt nội dung vụ án 17 Yêu cầu và lập luận của các bên 19 Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án 20 Các quy định pháp luật mà Tòa án áp dụng trong bản án 20 III. PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 23 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 24 Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 26 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 26 Vấn đề pháp lý về trách nhiệm của Công ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tập đoàn Kumgang Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 28 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 28 1 IV. KẾT LUẬN 30 V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 32 2 I. LỜI NÓI ĐẦU Thời điểm nền kinh tế nước nhà chuyển sang nền kinh tế thị trường, một cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Việt Nam với những cơ hội phát triển mới. Tuy nhiên, cánh cửa hội nhập mở toang cũng đồng nghĩa với theo sau đó, là những khó khăn thách thức. Các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, cộng với biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Rất nhiều doanh nghiệp không đủ sức đứng vững trước những biến động thị trường, những doanh nghiệp ngấp nghé bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Thức tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vốn cho các doanh nghiệp. Dịch vụ cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vượt trội đã trở thành giải pháp kịp thời và hợp lý cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp chọn đi thuê tài chính hơn càng hình thức cấp tín dụng truyền thống khác. Tuy nhiên, sự phức tạp trong thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ cho thuê tài chính, cụ thể là bên đi thuê, bên cho thuê, và bên bán tài sản là điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý. Sự cẩn thận, toàn diện khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng cho thuê tài chính cũng là điều mà tất cả các doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm. Những rủi ro từ hợp đồng cho thuê tài chính, nếu không được tiên liệu giải quyết từ khi thỏa thuận hợp đồng sẽ chính là con dao hai lưỡi với các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn về vốn nay lại phải gánh chịu thêm thiệt hại từ rủi ro của hợp đồng cho thuê tài chính. Nhóm chúng tôi lựa chọn bình luận một bản án phúc thẩm về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính, với mong muốn qua những phân tích, bình luận có thể hiểu rõ hơn quy định pháp luật, cũng như thực tiễn những vấn đề phát sinh trong hợp đồng cho thuê tài chính. Mặc dù Bản án được nhóm sử dụng để phân tích, bình luận có hiệu lực từ ngày 09 tháng 5 năm 2006, tức là trong thời gian Luật Các tổ chức tín dụng 1997 có hiệu lực pháp luật. Song các quy định về hoạt động cho thuê tài chính của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành về cơ bản đều tương đồng với Luật Các tổ chức tín dụng 1997. Ngoài ra, Nghị định 16/2001/NĐ-CP, văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử 3 áp dụng để giải quyết vụ án trong trường hợp chỉ vừa hết hiệu lực từ ngày 25 tháng 6 năm 2014, khi được thay thế bởi Nghị định 39/2014/NĐ-CP về Hoạt động của Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính. Nói cách khác, không có quy định khác biệt nào trong các văn bản pháp luật hiện hành làm thay đổi giải pháp đối với các vấn đề pháp lý trong vụ án. Chính vì những lý do đó, có thể thấy các vấn đề pháp lý được đặt ra và giải quyết trong Bản án mà nhóm lựa chọn vẫn còn mang ý nghĩa pháp lý, thực tiễn, thời sự. 4 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bản án số 102/2006/KTPT Ngày 09/5/2006 V/v tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Ông Hà Tiến Triển Các Thẩm phán Ông Trần Trọng Liên Ông Bùi Thế Linh Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Bà Nguyễn Thu Thủy, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội. Ngày 09 tháng 5 năm 2006 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh tế thị lý số 01KT/2006 ngày 25 tháng 01 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1081/2006/QĐPT ngày 20/4/2006 giữa các đương sự * Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương. Trụ sở D2 Hoàng Hoa Thám, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đại diện của nguyên đơn Ông Phạm Thanh Huy làm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo giấy ủy quyền ngày 14/3/2006 của ông Phạm Ngọc Thanh - Giám đốc Công ty - có mặt. * Bị đơn Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 5 Trụ sở Tầng 12 tòa tháp Vincom - 191 Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện của bị đơn bà Phạm Thị Dung làm đại diện theo giấy ủy quyền số12/UQ- CTTC ngày 21/3/2006 của ông Nguyễn Đức Thịnh - Giám đốc Công ty. Có luật sư Nguyễn Hoàn Thành – Văn phòng Luật sư Phạm và liên doanh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn. NHẬN THẤY Theo bản án dân sự sơ thẩm, vụ việc được tóm tắt như sau Ngày 01/3/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương gửi văn bản đến Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị xin thuê tài chính loại tài sản là màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các đi ốt phát quang màn hình LED, kèm theo là bộ hồ sơ đề án đầu tư bản quảng cáo điện tự LED tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và bản thỏa thuận nguyên tắc điều khoản cuả hợp đồng mua bán bảng thông tin LED giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình dương với Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Bên A, ký hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HD-CTTC với Công ty trách nhiệm hữu hạn và quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương Bên B nội dung cho thuê một màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các điốt phát quang như bên B đề nghị, mục đích sử dụng để kinh doanh các dịch vụ quảng cáo bằng màn hình. Địa điểm đặt màn hình tại đường Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa. * Việc thuê và cho thuê được thỏa thuận trên nguyên tắc - Bên B lựa chọn tài sản, nhà cung ứng, ký thỏa thuận nguyên tắc với nhà cung ứng với các điều kiện như chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hành… Bên B phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các vấn đề đã hỏa thuận với nhà cung ứng. - Bên A ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung ứng căn cứ vào thỏa thuận nguyên tắc đã được ký giữa bên B và nhà cung ứng, tài sản được bàn giao giữa 3 bên, cả 3 bên sẽ ký vào biên bản nghiệm thu tài sản. 6 - Căn cứ đề nghị thanh toán của bên B và biện bản nghiệm thu tài sản bên A sẽ thanh toán cho nhà cung ứng tổng số tiền đầu tư thiết bị bao gồm thuế VAT là USD tương đương VNĐ, trong đó + Bên A tài trợ VN Đ tương đương 46% giá trị hợp đồng và phí bảo hiểm trong suốt thời gian thuê. + Phần còn lại VN Đ tương đương 54% bên B sẽ phải trả trước cho bên A để bên A thanh toán với nhà cung ứng. - Lãi suất thuê năm đầu tiên là Từ năm thứ hai trở đi áp dụng lãi suất thả nổi theo quy định của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Lãi suất quá hạn bằng 15% lãi suất trong hạn. - Phí thuê bằng số dư nợ lãi suất thuê/ quý. Trả 3 tháng một lần. * Thời hạn thuê là 30 tháng, kể từ ngày bên A thành toán món đầu tiên cho nhà cung ứng cho đến khi bên B trả hết tiền thuê và phí cho bên A. * Hợp đồng quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Hợp đồng cho thuê tài chính có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi, sửa chữa Điều 12 khoản 3. Trường hợp chấm dứt hợp đồng theo điều khoản này, sau khi bên B trả đủ số tiền thuê cho bên A theo hợp đồng thuê, khi bên A nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán thì bên A sẽ hoàn trả lại cho bên B số tiền bảo hiểm tài sản. Ngoài ra hợp đồng còn quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong đó bên A có nghĩa vụ đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê. Bên B có nghĩa vụ trả đầy đủ, đúng hạn tiền thuê và lãi suất quá hạn nếu có theo đúng lịch thanh toán được ký kết kèm theo hợp đồng; thanh toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, bảo hiểm đối với tài sản thuê và các chi phí khác theo quy định của Nhà nước. Sau khi ký hợp đồng các bên còn ký tiếp 04 bản phụ lục hợp đồng nữa thống nhất lịch thanh toán tiền thuê màn hình LED và kéo dài thời hạn thuê từ 30 thành 45 tháng. 7 Để cụ thể hóa thỏa thuận nguyên tắc ngày 01/3/2002 dựa trên thỏa thuận giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc, dựa trên Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002 ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính đã ký “ Hợp đồng ủy thác nhập khẩu” Hợp đồng ủy thác nhập khẩu”. Theo đó Công ty cho thuê tài chính ủy thác cho Công ty quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương ký kết hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc và làm các thủ tục nhập khẩu thiết bị màn hình LED nêu trên. Phí ủy thác 0%. Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng ủy thác nhập khẩu. Ngày 12/4/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã ký hợp đồng mua bán bảng thông tin LED với người bán là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Hợp đồng quy định giá trị màn hình là USD, giá trị này bao gồm Trị giá bảng LED vận chuyển đến Việt Nam, bảo hiểm lắp đặt, chạy thử, phụ tùng thay thế, bảo hành, đào tạo, huấn luyện nhân viên kỹ thuật của bên mua trong vòng hai tháng và là giá đến cảng Việt Nam. Bên mua chịu trách nhiệm chuẩn bị địa điểm cho bảng LED xây dựng, lắp đặt giá đỡ bảng LED theo thiết kế; nguồn điện với công suất yêu cầu được kéo đến địa điểm lắp đặt, chuẩn bị diện tích để làm phòng điều khiển cho màn hình… Bên bán có trách nhiệm lắp đặt màn hình trên giá đỡ do bên mua chuẩn bị, hiệu chỉnh, chạy thử và bàn giao bảng LED cho bên mua ở trạng thái hoạt động tốt phù hợp với các thông số của màn hình ghi trong báo giá chính thức của bên bán. Việc lắp đặt phải được hoàn thành 10 ngày kể từ khi bảng LED được vận chuyển đến địa điểm lắp đặt. Thời gian bảo hành là 02 năm kể từ ngày hoàn thành lắp đặt và bàn giao bảng LED cho bên mua. Trong thời gian bảo hành, bên bán có trách nhiệm sửa chữa ngay những hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. Hai bên thỏa thuận thanh toán bằng L/C không hủy ngang 100% giá trị của màn hình là USD mở tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Về quy trình thanh toán sẽ được phân chia làm 04 lần + Lần 1 Bên bán được quyền rút 50% giá trị L/C sau khi trình bộ chứng từ sạch. 8 + Lần 2 Bên bán được quyền rút 40% giá trị L/C khi bàn giao xong phụ tùng thay thế. + Lần 3 Bên bán được quyền rút 55 giá trị L/C sau 9 tháng. + Lần 4 Bên bán được quyền rút nốt 5% giá trị L/C sau 12 tháng. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi hết thời hạn bảo hành và nếu có tranh chấp sẽ chọn trọng tài thương mại quốc tế là cơ quan tài phán. Ngày 03/8/2002 đại diện của ba bên bên bán, bên mua và bên cho thuê đã ký biên bản bàn giao lắp đặt màn hình LED. Các bên xác nhận tài sản bàn giao và lắp đặt phù hợp với quy định của hợp đồng mua bán và hợp đồng cho thuê tài chính. Màn hình đã chạy thử tốt. Ngày 12/7/2002 Công ty cho thuê tài chính cũng đã làm thủ tục mua bảo hiểm cho màn hình LED nêu trên với tổn số phí là VNĐ. Thời hạn bảo hiểm là 30 tháng kể từ ngày 12/7/2002 đến hết ngày 12/01/2005 có giấy chứng nhận bảo hiểm thiết bị điện tử cấp ngày 12/7/2002. Phía Công ty Thái Bình Dương đã làm các thủ tục thanh toán tiền phí bảo hiểm đối với Công ty cho thuê tài chính. Về thanh toán Công ty cho thuê tài chính đã thanh toán cho Công ty Kumgang 90% giá trị L/C = VNĐ, còn lại 10% = USD do còn đang trong thời gian bảo hành và hợp đồng mua bán đang còn hiệu lực chưa thanh toán trong số tiền VNĐ phía Công ty Thái Bình Dương trả VNĐ, phía thuê tài chính trả VNĐ. Cuối tháng 11/2002 màn hình LED bắt đầu bộc lộ nhiều sai sót về chất lượng. Bên bán là Công ty Kumgang đã cho thay thế, sửa chữa nhưng màn hình vẫn bị hỏng liên tiếp. Nguyên nhân gây ra sự cố màn hình cũng đã được Công ty Kumgang xác định là do màn hình không khép kín và để nước mưa chảy vào trong gây hỏng các đèn điôt và các bộ mạch điện bên trong. Công ty Thái Bình Dương đã làm đơn đề nghị bảo hiểm Hà Nội phải đền bù thiệt hại, sau khi giám định, bảo hiểm Hà Nội đã có văn bản số ngày 2/7/2003 từ chối đền bù với lý do “ Tổn thất là do chất lượng linh kiện không phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam…Tổn thất này không thuộc phạm vi bảo hiểm mà thuộc trách nhiệm của người bán sản phẩm”. 9 Ngày 30/7/2003 Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã tiến hành khởi kiện tập đoàn Công ty Kumgang AD Systen Corporation ra Trung tâm trọng tài quốc tế, bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, yêu cầu Công ty Kumgang phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các thiệt hại xảy ra do chất lượng hàng cung cấp quá kém. Công ty Kumgang có lỗi với tư cách là nhà thiết kế, sản xuất lắp đặt đã không tính đến điều kiện làm việc ngoài trời của màn hình LED tại Việt Nam. Công ty Kumgang còn có lỗi vi phạm nghĩa vụ bảo hành khi được thông báo chất lượng màn hình, Công ty Kumgang thường xuyên trả lời chậm trễ. Các sự cố màn hình không được khắc phục kịp thời dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty Thái Bình Dương bị thiệt hại nhiều. Do đó buộc Công ty Kumgang phải nhận lại màn hình và hoàn trả lại tiền mua màn hinh cho Công ty Thái Bình Dương, đồng thời còn phải chịu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại và theo hợp đồng mua bán giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương với công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Ngày 03/6/2004 Trung tâm trọng tài quốc tế đã ra phán quyết vụ kiện số 10/03 theo đó tập đoàn Kumgang phải hoàn trả số tiền mua màn hình là USD và bồi thường thiệt hại thực tế cho Công ty Thái Bình Dương là VNĐ. Công ty Kumgang đã có đơn gửi đến Tòa án xin hủy phán quyết của Trọng tài. Ngày 10/01/2004 Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao đã xử bác đơn yêu cầu xin hủy quyết định trọng tài vụ kiện số 10/03 được công bố ngày 03/6/2004 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương với Công ty Kumgang AD System Corporation – Hàn Quốc có hiệu lực. Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã gửi đơn đến cơ quan thi hành án Hà Nội. Ngày 28/3/2005 Phòng thi hành án Hà Nội đã ra quyết định thi hành án số 48/2005 cho thi hành phán quyết của Trọng tài vụ kiện số 10/03 nêu trên. Tuy nhiên ngày 11/7/2005 cơ quan thi hành án Hà Nội đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án vì lý do bên phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Quan điểm của nguyên đơn 10 [...]... dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn đã được thỏa thuận tại mục khoản 4 Điều 12 của hợp đồng, cụ thể “Trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo khoản 3 của Điều này, sau khi bên B Công ty Thái Bình Dương đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên A Công ty cho thuê tài chính theo hợp đồng thuê. .. chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 27 3 Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.” Khoản 4 điều 28 nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 28 4 Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo... ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tập đoàn Kumgang Các quy định pháp luật nội dung mà Tòa án áp dụng trong bản án Điều 61 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 “Điều 61 Cho thuê tài chính 1 Hoạt động cho thuê tài chính đối với tổ chức, cá nhân được thực hiện qua công ty cho thuê tài chính 2 Công ty cho thuê tài chính sau đây gọi là bên cho thuê sở hữu tài. .. sản thuê; b Trực tiếp nhận tài sản thuê từ người bán theo thoả thuận trong hợp đồng mua tài sản; c Lựa chọn việc tiếp tục thuê hoặc mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng cho thuê 2 Bên thuê có những nghĩa vụ sau đây a Sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê; không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê đồng. .. hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê; 22 e Bên thuê không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ tài chính nào.” Điều 17 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 17 1 Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc... định rằng hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang, song Khoản 3 Điều 17 và Điều 27 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP quy định những trường hợp ngoại lệ, các bên được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 12 của hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐCTTC đã quy định rõ Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất,... dứt hợp đồng Phán quyết trong bản án cấp sơ thẩm buộc Công ty Thái Bình Dương phải trả cho Công ty cho thuê tài chính số tiền gốc còn lại là 2 tỷ đồng và phí thuê tài chính là đồng là có căn cứ, đúng pháp luật 26 Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý Trong bản án phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đồng. .. định này, bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiểm tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán.” 23 III PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề... Công ty Thái Bình Dương phải trả hết tiền cho Công ty cho thuê tài chính Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án Từ nội dung của vụ án, để có thể đưa ra phán quyết cho yêu cầu của các bên, Bản án của Tòa án cần giải quyết 3 vấn đề pháp lý cơ bản trong vụ án - Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn - Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết... và chính các thỏa thuận của hai bên ký kết tại hợp đồng khẳng định Hợp đồng cho thuê tài chính vì Công ty Thái Bình Dương là hợp đồng không hủy ngang Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nói trên Theo quy định ở điểm 3, 4 Điều 27 và khoản 4 Điều 28 Nghị định 16/NĐ-CP; ý kiến đó là đúng pháp luật, án sơ thẩm xử xác nhận việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính . hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. Hai bên thỏa thuận thanh toán bằng L/C không hủy ngang 100% giá trị của màn hình là USD mở tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam hợp đồng khẳng định Hợp đồng cho thuê tài chính vì Công ty Thái Bình Dương là hợp đồng không hủy ngang. Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nói trên. - Xem thêm -Xem thêm Bình luận bản án Ngân hàng Tranh chấp trong hợp đồng cho thuê tài chính, Bình luận bản án Ngân hàng Tranh chấp trong hợp đồng cho thuê tài chính, Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa ... D T chủ sở ký kết Hợp đồng mua bán hàng hoá số 1905 HQ06 ngày 19/5/2010 Phụ lục Hợp đồng số 1905 PLHQ ngày 27/6/2010 Nội dung hợp đồng Cửa hàng âm - ánh sáng - nhạc cụ DT bán cho Công ty TL 08 ... cư trú khác toán cho người cư trú tiền xuất hàng hoá dịch vụ; - Các trường hợp khác Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, chấp thuận VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị điện ... lượng tấn, đơn giá đồng/ tấn, tổng giá trị hợp đồng đồng Tổng giá trị hai hợp đồng đồng Thực hợp đồng, HN toán cho Ánh P chuyển khoản lần từ ngày 22/3/2009... 16 4,195 24 Tiểu luận "Kỹ năng của luật sư trong hoạt động tranh tụng giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở" ... đồng mua bán nhà ở, người khởi kiện lại vị trí mối quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp Kỹ luật sư thủ tục hỏi vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Trong vụ án tranh chấp mua bán nhà ở, luật sư ... tụng giải vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, trước hết luật sư cần nắm vững tổng hợp văn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán nhà giải tranh chấp mua bán nhà bao gồm - Bộ Luật ... thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp người nhờ thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp chồng chéo việc mua bán nhà với chuyển quyền sử dụng đất; tranh chấp thời hạn bàn giao nhà, tiền hợp đồng... 12 1,178 5 Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong hoạt động tranh tụng giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở potx ... tụng giải vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, trước hết luật sư cần nắm vững tổng hợp văn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán nhà giải tranh chấp mua bán nhà bao gồm - Bộ Luật ... thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp người nhờ thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp chồng chéo việc mua bán nhà với chuyển quyền sử dụng đất; tranh chấp thời hạn bàn giao nhà, tiền hợp đồng ... tụng vụ án giải tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Có thể phác thảo tương đối dạng tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, gồm tranh chấp chủ sở hữu nhà thực tế với chủ sở hữu nhà giấy tờ, trường hợp người... 12 809 0 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng nhà ở ... đủ sở xác định quan hệ hợp đồng xác lập ngày 20/3/2006 bà B ông M hợp đồng mua bán nhà, quan hệ hợp đồng vay tài sản * Luật nội dung áp dụng giải tranh chấp tính hợp pháp hợp đồng mua bán nhà ... thức hợp đồng mua bán nhà 16 Hợp đồng mua bán nhà phải lập thành văn bản, có chứng nhận Công chứng nhà nước chứng thực Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền Về nội dung hợp đồng Đối tượng hợp đồng nhà ... xác lập hợp đồng mua bán nhà số tiền bên mua bên bán thỏa thuận đưa vào hợp đồng tiền mua nhà Nên hợp đồng mua bán nhà ghi rõ ông T - bà K nhận USD đồng đồng nhận... 26 1,852 12 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng đại lý thương mại ... bên toán Tuy nhiên quan điểm không bởi Hợp đồng đại lý hai bên hợp đồng thương mại, trước hết chịu điều chỉnh Luật Thương mại năm 2005 Tương tự tranh chấp số 3, hợp đồng đại lý hợp đồng đại lý ... mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý Trong trường hợp thời gian đại lý năm khoản bồi thường tính tháng thù lao đại lý trung bình thời gian nhận đại lý Trường hợp hợp đồng đại lý chấm ... thường tháng thù lao đại lý trung bình thời gian nhận đại lý cho năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý Trong trường hợp thời gian đại lý năm khoản bồi thường tính tháng thù lao đại lý trung... 20 3,767 20 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng xây dựng ... án nước theo quy định tại Điều 412 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng thi công xây ... quy định tại Điều 168 của Bộ luật VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng giao nhận thầu khí lắp dựng công trình Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng thương mại dịch vụ T sau viết tắt Công ty T ... quan đến hợp đồng xây dựng với Công ty Song H, có quyền tham gia tố tụng Toà án cần thiết” Sau nhiều lần hai bên thương lượng không thành, Công ty Song H khởi kiện bà Phạm K Toà án để yêu... 14 1,603 3 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm ... doanh bảo hiểm năm 2000 quy định Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh hợp đồng bảo hiểm giao kết có chứng doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp ... bảo hiểm điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ bên mua bảo hiểm; b Cấp cho bên mua bảo hiểm Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm sau giao kết hợp đồng bảo hiểm; c Trả tiền bảo hiểm ... thuận hợp đồng bảo hiểm Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo văn cho doanh nghiệp bảo hiểm việc chuyển nhượng doanh nghiệp bảo hiểm có văn chấp... 16 1,880 8 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng ... dụng tạm tính đến ngày 07/9/2007, cụ thể sau a Hợp đồng tín dụng số số 97/2003/HĐTD-PVFC-10 ký ngày 20/10/2003 - Vốn vay chưa hoàn trả đồng - Lãi chưa toán đồng b Hợp ... SỐ Tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngân hàng H với Công ty cổ phần thương mại phát triển gia súc T gọi tắt Công ty T Tóm tắt nội dung vụ việc Ngân hàng H Công ty T có ký kết hợp đồng tín dụng, ... Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24/6/2007 với số tiền vay đồng, thời hạn vay 60 tháng, ngày trả hết nợ lãi gốc 24/6/2009 Ngày 16/6/2007 hai bên ký kết hợp đồng chấp quyền sử dụng... 14 4,808 12 Bình luận bản án tranh chấp Hợp đồng vận chuyển ... Ký hợp đồng góp vốn hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II; c Ký hợp đồng, văn góp vốn hợp đồng, ... tranh chấp hợp đồng vận chuyển tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng Vì vậy, cần xác định bị đơn vụ kiện ông Nguyễn Quang C ông Nguyễn Thanh H Điều 439 BLDS năm 2005 quy định Thời điểm chuyển ... thường thiệt hại hợp đồng trách nhiệm chủ xe giới, theo nguyên đơn Công ty B bị đơn ông Nguyễn Thanh H Bình luận - Việc xác định tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng không Công ty Bình M với chủ... 15 1,708 4 Vụ tranh chấp hợp đồng mua bán gạo giữa hai công ty Galluck limited và công ty xuất nhập khẩu lương thực Hà Nội đã khởi kiện lên toà án thành phố Hà Nội ... mua Và Công ty Xuất nhập lương thực Hà Nội VINAFOODHANOI 40 đường Hai Bà Trưng - Hà Nội - Việt Nam Tel 256771, Telex 411526 - VNF VTĐược gọi Người bán Hai bên đồng ý hợp đồng mua bán gạo ... bên ký kết hợp lệ Do hai bên có tranh chấp hợp đồng mua bán gạo nên toà n xử theo quy định pháp luật IV MỘTVÀISUYNGHĨCỦASINHVIÊN Việc tranh chấp hợp đồng mua bán gạo giải sau Theo hợp đồng ký kết ... Galluck Limited Toà n cử số cán xem xét lại hợp đồng giấy tờ có liên quan đến hai công ty Vina Food Galluck Sau thời gian ngắn xem xét, To án thành phố Hà Nội nhận định Toàn giấy tờ hợp đồng mà hai... 13 1,037 4 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại tòa án nhân dân thành phố hà nội ... I HC QUC GIA H NI KHOA LUT TRNG TH H Giải tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội Chuyờn ngnh Lut Kinh t Mó s 60 38 01 07 LUN ... quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa 36 Trỡnh t th tc gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm theo phỏp lut Vit Nam 37 Tỡnh hỡnh gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn ... gii quyt tranh chp So sỏnh vic xột x s thm tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm vi vic xột x tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc phỳc thm Vic th lý v xột x v ỏn theo th... 119 1,396 8 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại tòa án nhân dân thành phố hà nội ... I HC QUC GIA H NI KHOA LUT TRNG TH H Giải tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội Chuyờn ngnh Lut Kinh t Mó s 60 38 01 07 LUN ... quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa 10 Trỡnh t th tc gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm theo phỏp lut Vit Nam 10 Tỡnh hỡnh gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn ... vi cỏc hỡnh thc gii quyt tranh chp khỏc 10 So sỏnh vic xột x s thm tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm vi vic xột x tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc phỳc thm ... 23 532 1 Xem thêm

bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng