bùi thị xuân 2k3 chết
Bán nhà riêng tại Phường Bùi Thị Xuân, Quận Hai Bà Trưng. Hiện có 20 bất động sản. Bác tôi gửi bán căn hộ DT 80.2m2 4T MT 5,05m ngõ Tràng An, Bùi Thị Xuân SĐCC giá TL. LH 0972 858 ***. - Chính chủ bác tôi gửi bán căn nhà mặt ngõ Tràng An thông từ Phố Huế sang Triệu Việt Vương.
Ngân hàng Vietcombank Quận 1 - APi thanh toán. Trụ sở Chi nhánh. Địa chỉ: 69 Bùi Thị Xuân, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.38359323/ 028.38359262. Fax: 028.38325041. Apithanhtoan.com 3 phút trước 388 Like.
Viet69 - [Tập 2] Truyện Nam Chính Xin Anh Đừng Ly Hôn | Truyện Ngôn Tình, Đô Thị, Trọng Sinh, Hài Hước, HE. Welcome to Việt69 XXX! Links
Bùi thị xuân là vợ ai. Hỏi lúc: 2 tháng trước. Trả lời: 0. Lượt xem: 43. Sau khi Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đưa quân về kinh
Book A25 Hotel - 20 Bui Thi Xuan & Save BIG on Your Next Stay! Compare Reviews, Photos, & Availability w/ Travelocity. Start Saving Today!
Tại số 76 Bùi Thị Xuân, phường Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng, không gian 3 tầng của nhà hàng Tonchan Ramen có sức chứa khoảng 75 khách, được thiết kế theo phong cách Nhật Bản truyền thống, ấm cúng và yên tĩnh. Bên cạnh đó, nhà hàng có 5 phòng riêng, sức chứa từ 8 đến
Lừa Đảo Vay Tiền Online. Bùi Thị Xuân ở làng Phú Xuân, xã Bình Phú huyện Bình Khê nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, là cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên. Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với đô thống Ngô Mạnh nên bà rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm. Trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa, Trần Quang Diệu đã đánh nhau với một con hổ lớn, hung dữ. Nhân đi qua đấy, bà Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị. Sau này, hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm, vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm. Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt Bảo tàng Quang Trung, Bình Định Khi gia nhập nghĩa quân Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục. Bà được phong là đô đốc. Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung Nguyễn Huệ mất, để lại nhiều thương tiếc. Cũng từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh Quang Toản còn nhỏ, không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là cậu họ Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Các đại thần kết bè phái, quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi, khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc... Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương. Tức thì Nguyễn Ánh xua quân chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn. Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành luỹ của Tây Sơn nhanh chóng bị mất. Bà Xuân cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. 6/11 năm Nhâm Tuất 2011-1802, vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi giày bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường. Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau "Đứa con gái trẻ của bà bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta! Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời... Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo".
Trong cuốn sách Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của triều Nguyễn - vừa nhận giải thưởng Sách Hay lần thứ 10 ở hạng mục Sách phát hiện do Khai Tâm và NXB Tổng hợp ấn hành, nhà nghiên cứu GS Nguyễn Quốc Trị cho biết "Bùi Thị Xuân là một nhân vật nòng cốt của triều Cảnh Thịnh, có họ hàng bên ngoại với vua Quang Toản như Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Cũng như chồng là Trần Quang Diệu, bà còn là một tướng tài của Tây Sơn đánh đến cùng không chịu đầu hàng, và với tư cách đó, phải bị tội như các tướng khác trong cùng trường hợp. Cuối năm 1801, lúc Vua Quang Toản, sau khi mất Phú Xuân chạy ra Bắc, rồi mang 30 ngàn quân trở vào vùng sông Gianh để lấy lại thủ đô Huế, thì bà cũng mang theo 5 ngàn quân của bà. Hai bên đánh nhau dữ dội, quân Vua Gia Long bị thiệt hại khá nặng và phải lùi". Nữ tướng Bùi Thị Xuân Tranh của Phan Thanh Nam Tìm hiểu qua Thực lục thì vai trò của nữ kiệt họ Bùi được xác nhận trong trận đánh quyết định cuối cùng rất rõ “Đầu năm 1802, khi quân Tây Sơn tấn công mạnh vào lũy Trấn Ninh. Giặc đến sát lũy Trấn Ninh, vua sai quân túc trực ra ụ bắn ở cửa, bắn giết được hơn một nghìn quân giặc. Giặc đem hết quân đến sát núi Đâu Mâu, bám vào như kiến mà bò lên. Quân ta từ trên núi thả đá xuống, quân giặc bị đè chết rất nhiều. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cưỡi voi thúc quân liều chết đánh từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Vừa gặp thủy binh của Nguyễn Văn Trương, nhân được gió đông bắc, đánh phá quân giặc ở ngoài biển cướp được 20 chiếc thuyền, bộ binh giặc nghe tin thủy binh thua, sợ mà tan vỡ. Quang Toản chạy. Nguyễn Văn Kiên đem quân đầu hàng". Tư liệu ở Liệt truyện còn nói rõ hơn nữa về vai trò quan trọng của bà Bùi trong trận đánh này “Khi Vua Quang Toản sợ muốn rút quân, Thị Xuân nắm cương ngựa lại cố xin lại vây, quân đốc thúc đánh, từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Chợt nghe thủy quân bị Nguyễn Văn Trương đánh thua, mới sợ mà tan chạy cả”. Và trong số “đồ đảng” của Vua Quang Toản “đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng” thì như vậy bà đã bị cực hình cưu thủ, chém và bêu đầu cho mọi người biết như hai ông đó, chứ không có chuyện bị voi chà. Và du có cho là bà bị tội voi chà đi nữa, cũng không thể có cái cảnh bà dõng dạc thẳng tiến đến trước mặt một con voi làm cho nó kính sợ bà như là một chủ cũ của nó, vì tội lăng trì cho 5 voi xé xác không cho phép sự việc xảy ra như vậy. "Chính sử cũng đã kể rõ ràng cách xử án lăng trì cho 5 voi xé xác. Nếu là đầu cùng 2 chân và 2 tay của bà phải bị quan quân thi hành bản án buộc vào 5 con voi mỗi con đi một hướng để xé xác, thì làm sao bà có thể tự do tiến đến trước đầu 1 con voi để thị uy với nó được", Giáo sư Nguyễn Quốc Trị phân tích. Con gái nữ danh tướng Bùi Thị Xuân có bị hình phạt nặng như mẹ ? Về người con gái còn nhỏ tuổi của bà thì càng không thể bị hình phạt voi xé, hay xử tử vì liên đới trách nhiệm với cha là chính phạm là Trần Quang Diệu và mẹ là Bùi Thị Xuân. Bởi, theo luật lệ của Đông phương thời đó đặt nặng quyền lợi và trách nhiệm hỗ tương của những người cùng một gia tộc như một người làm quan thì cả họ được nhờ, con dại cái mang, phụ trái tử hoàn cha vay con trả, chớ không theo chủ nghĩa tự do cá nhân, ai làm nấy chịu, ai làm nấy ăn, như luật lệ Tây phương. Nữ tướng anh hùng Bùi Thị Xuân qua nét vẽ của các họa sĩ Ảnh Giáo sư Nguyễn Quốc Trị cho biết qui định ở thời đó "Gia tộc dựa trên nguyên tắc phụ hệ, con lấy họ cha, và nguyên tắc trọng nam, giới nữ được coi như thuộc họ nhà chồng. Ngoài ra, vì bản chất yếu đuối, giới nữ cũng được luật lệ áp dụng hình phạt nhẹ hơn là đối với nam giới. Thật vậy, khi một người phạm một tội nặng nhất, như là “mưu làm phản và làm sự đại nghịch” thì chính người ấy bị xử tử đem lăng trì, còn những người thuộc nam giới cùng họ, là cha, ông, con, cháu, anh em từ 16 tuổi trở lên bị tội trảm, còn con trai từ 15 tuổi trở xuống, cùng mẹ; con gái; vợ cả vợ bé, chị em gái và vợ cả, vợ bé của con kẻ chính phụ ấy đều cấp cho các nhà công thần dùng làm nô. Nếu con gái kể cả chị em gái đã định gả rồi, giao trả cho người chồng. Các con cháu của chính phạm đã đi làm con nuôi người khác, và vợ của chính phạm mới hỏi chưa cưới, đều không bắt tội”. Đặc biệt, theo Giáo sư Nguyễn Quốc Trị tiết lộ trong sách đã dẫn, rằng luật nhà Nguyễn không có dùng hình phạt 'tru di tam tộc, giết tất cả những người trong ba họ, là họ cha, họ mẹ, và họ bà nội, như thiên hạ thường tưởng tượng. "Chính vì vậy, cô con gái của nữ kiệt Bùi Thị Xuân không thể nào bị xử lăng trì voi chà, hay xử tử bằng một cách nào khác được", Giáo sư Nguyễn Quốc Trị khẳng định trong cuốn giải thưởng sách hay Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của triều Nguyễn.
“Hỏa tượng” là tên của nó, “Hỏa tượng” là cách người ta tạo ra nó, và “Hỏa tượng” cũng chính là cách mà nó chết đi. Người ta dùng kim loại nóng chảy xăm chàm lên mình voi, vẽ thành những hoa văn trác tuyệt, những lời nguyền cổ xưa, những câu thần chú đã thất truyền. Để rồi, khi voi bị thiêu sống, vết chàm kia sẽ sáng rực một lần nữa, cuồn cuộn trong ánh lửa, đẹp đẽ vô cùng. Và người ta chỉ chú tâm ngắm nhìn kiệt tác mà quên đi nỗi đau của nó, một con voi tội nghiệp. * Nó là con voi trắng lớn nhất vùng rừng núi Tây Sơn thượng đạo này, lớn hơn cả những con voi huyền thoại của xứ Vạn Tượng, Bồn Man, Xiêm La hay Miến Điện. Nó là một vị thần. – Nó là vị thần bảo vệ núi rừng. – Không, nó là ác thần, nó đã giết chết tám người trong bản rồi. – Nó là nô bộc của thần Lửa, chúng ta phải thiêu sống nó hiến tế cho thánh thần! Vậy là, vị già làng người Gia Rai huy động tất cả những thầy luyện voi giỏi nhất, những chiến binh ngoan cường nhất, bày đủ mọi mưu mẹo, sắp đủ các loại bẫy quyết bắt sống con voi trắng đơn độc kia. Nhưng đều vô ích, nó khôn ngoan như một con cáo, thoắt ẩn thoắt hiện giữa rừng già chẳng thể dò la ra hành tung. Cả nhóm truy đuổi đến kiệt sức, sau đó hạ trại trên đỉnh núi quan sát tình hình. Rừng rậm trùng điệp ẩn chứa bao hiểm nguy. Bóng dáng con voi vẫn mất hút trong sương mù. Trời chập tối, ánh trăng tròn vạnh và nhuốm đỏ, vị già làng như linh cảm được điềm xấu nhưng không sao lý giải nổi. – Xem ra tối nay có đổ máu… Vị già làng ngồi nhìn ngọn lửa, nỗi bất an ngày càng lớn, đêm dài thăm thẳm. Con voi đã đi đâu? Hay còn quanh quẩn ở đây? Những tráng sĩ người Gia Rai hì hục mài giũa binh khí thật sắc bén. Dòng sông loang loáng chảy ngang vùng thung lũng hẹp. Tiếng gà gáy thao thức không yên. Đến nửa đêm thì già làng thất thần tỉnh giấc, sững người một lúc lâu nghe ngóng tình hình, sau đó thúc giục mọi người mau chóng chạy về làng. Băng ba con suối, vượt bốn ngọn đồi. Đạp lên cỏ gai và đá nhọn. Cuối cùng… Cuối cùng, cảnh tượng khủng khiếp kia hiện ra trước mặt họ. Con voi trắng đang lên cơn thịnh nộ, tàn phá ngôi làng không thương tiếc. Vòi nó siết chết phụ nữ, chân giày xéo người già và trẻ con, ngà quật tan tành nhà cửa. Nó khát máu, nó trả thù, nó đang chứng minh cho loài người thấy nó mới là chúa tể của rừng rậm. – Nó là một con voi mang trái tim hổ dữ! – Nó là ác quỷ! – Chúng ta phải giết nó! Giết nó, hạ sát nó bằng mọi giá, săn lùng nó đến cùng trời cuối đất. Như thường lệ, con voi trắng bỏ chạy khi nhận ra mình yếu thế hơn. Nó lẩn vào đại ngàn, trầm mình xuống suối, nó ẩn nấp và chờ đợi thời cơ thuận lợi. Chờ đến lúc loài người mỏi mệt, nó sẽ bất thình lình tấn công, giết chóc, tàn phá. Sau đó rút chạy nhanh như một cơn gió. Vị già làng người Gia Rai ngẫm mình không thể đối phó nổi voi trắng, đành liên lạc với làng Tre, làng Bầu, làng Đá, kể cả nhóm nghĩa quân Tây Sơn đang hoạt động gần đó. Những vị tráng sĩ can trường cưỡi ngựa lùng sục khắp mọi ngõ ngách của rừng già. Nỏ lớn, bẫy đá giăng giăng khắp nơi. Người ta ngăn dòng suối, rút kiệt lòng sông, nhưng mọi nỗ lực đều vô vọng. Rừng rậm vẫn thâm sâu vô lường. Việc truy lùng tưởng như rơi vào bế tắc, thì một ngày nọ, có nhóm nghĩa quân Tây Sơn kéo đến tiếp ứng người Gia Rai, và họ mang theo rất nhiều rương gỗ kỳ lạ. – Thứ màu đen này là gì? – Thuốc nổ, nó đủ sức thổi tung cả một ngọn núi đó! Ngay lập tức, người Gia Rai với người Kinh tiến hành giăng một cái bẫy vô cùng tinh vi, vị già làng đích thân làm mồi nhử, thuốc nổ thì chôn giấu gần đó. Đêm trăng muộn, ngôi làng chìm vào tịch mịch. Rồi việc gì đến cũng đến, dưới lớp ánh sáng bàng bạc ma mị, con voi trắng khổng lồ xuất hiện, nó to như một quả núi với đôi mắt đỏ rực quái dị. Nó thận trọng từng bước chân dò xét, sau khi thấy an toàn, nó cuồng nộ lao tới quyết tâm nghiền nát vị già làng người Gia Rai. Mặt đất rung chuyển như sấm động. Nó không phải là một con voi, nó là ác quỷ, ác quỷ phải chết. Đùng, một tiếng nổ khủng khiếp vang lên. Lửa mịt trời, con voi to tướng bị vụ nổ hất tung một đoạn khá xa. Giết được rồi! Dân làng hò hét chạy đến bao vây con voi. Vũ khí sáng choang, giáo thương nhọn hoắt. Vị già làng phất tay bảo mọi người dừng lại, từng bước thận trọng, một mình ông tiến lên dò xét. Già làng giơ bàn tay run rẩy khẽ chạm vào đầu voi, da thịt nó bị cháy xém, máu tuôn ra ầng ậc, thứ mùi tanh tưởi không ngửi nổi. Nhưng! Có điều gì đó không đúng! Già làng chợt giật mình – Nó… nó vẫn còn sống! Nó còn sống và nó đang trừng đôi mắt đỏ ngầu nhìn ông, uất ức, phẫn nộ cùng cực. Nó là một con voi tà ác, nếu để nó chết như vậy linh hồn nó sẽ nguyền rủa cả ngôi làng, cả nước Hỏa Xá của chúng ta. Thiên tai giáng xuống, mùa màng thất bát, rừng rậm khô cằn, bệnh dịch sinh sôi… Vị già làng người Gia Rai gồng tay trăn trở, cuối cùng ông quyết định không giết nó ngay, mà giữ voi trắng lại để trấn yểm, sau đó hỏa thiêu, hiến tế lên thánh thần. Người ta dùng móc sắt móc vào chân voi, gông xiềng nó bằng một sợi xích to, những nhà luyện kim giỏi nhất của nước Hỏa Xá được nhà vua gửi đến để tạo nên kiệt tác. Họ dùng kim loại xăm chàm trực tiếp lên mình voi. Vàng, bạc, thiết được nung chảy, đổ thẳng lên da thịt loài hung thú. Từ đó vẽ thành những hoa văn trác tuyệt, những lời nguyền cổ xưa, hay những câu thần chú đã thất truyền. Một giai đoạn kỳ công và cùng cực đau đớn, con voi trắng gầm thét thảm thiết, khổ sở quằn quại suốt ngày đêm. Nhưng chẳng ai quan tâm đến nó, nó đã lạm sát quá nhiều người, nó phải trả giá. Máu hòa quyện với nỗi đau dần tạo thành kiệt tác, kiệt tác để hiến tế lên thánh thần. Ngày tháng dần trôi qua, số mệnh con voi đã được định đoạt sẵn, giàn hỏa thiêu cũng tạm chuẩn bị xong. Tuy nhiên, trước ngày con voi trắng bị hành hình có một chuyện ngoài dự tính đã xảy ra, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc triều Tây Sơn cùng anh em tướng lĩnh bất ngờ viếng thăm bản làng. Già làng mở tiệc khoản đãi người Kinh đến khuya, ai cũng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ. Người Gia Rai và nghĩa quân Tây Sơn có nhiều giao tình, họ từng nuôi dưỡng, che chở nghĩa quân những ngày đầu khó khăn, trai tráng trong làng còn theo chân nhà vua lập được vô số chiến công. Nay đất nước dần ổn định, vua Thái Đức thường dẫn tướng lĩnh đi thăm thú chốn xưa, ôn lại chuyện cũ. Đến khi tiệc gần tàn, trăng lên lần nữa thì đột nhiên con voi trắng ngoài sân rống lên khủng khiếp, tiếng rống chất chứa biết bao bi ai và căm phẫn. Vua Thái Đức thấy lạ liền hỏi già làng, người Gia Rai kinh hoàng kể lại câu chuyện. Vua Thái Đức nghe xong thì ôn tồn nói – Các tướng lĩnh dưới trướng ta đều anh dũng thiện chiến, có kẻ thù nào mà chưa từng đánh bại, há sợ một con dã thú hèn mọn… Nào trong các ngươi ai dám xung phong thuần phục voi dữ? Các tướng đều nhìn nhau e dè, ngay lập tức Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ bước ra giữa nhà – Để em bắt nó về cho vua anh làm vật cưỡi! Nguyễn Huệ vác đao hùng dũng bước ra ngoài, vị chiến tướng trăm trận trăm thắng đối đầu với loài hung thú khổng lồ. Ánh trăng nhập nhoạng, gió lạnh buốt xương. Con voi lùi vài bước trước khí thế ngút trời của Long Nhương tướng quân, tuy nhiên sau đó nó lại gầm rống dữ tợn hơn, quăng quật vòi ngà lung tung khiến ai nấy đều kinh hãi. Thấy sự việc không xong, Nguyễn Huệ đành vác đao trở vào, thở dài – Hay là Trần Thiếu phó thử xem sao, ông từng đánh bại cả mãnh hổ kia mà! – Thuộc hạ nào dám tranh vật cưỡi với đức vua. – Trần Quang Diệu cúi đầu ngần ngại. – Ông không cần ngại ngùng, bậc quân vương cốt ở tấm lòng bao dung rộng lớn chứ không phải đi tranh một con vật cưỡi to lớn với thuộc hạ. Vua Thái Đức mỉm cười, vẫy tay bảo Trần Quang Diệu cứ thoải mái. Vị tướng thận trọng vác đao bước ra ngoài. Lần này, thoáng thấy bóng ông, con voi trắng bỗng dưng nằm mọp xuống đất, im lìm. Tuy nhiên, khi ông đến gần hơn thì nó chợt tung vòi xém nữa là quật chết Trần Quang Diệu. Diệu toát mồ hôi hột, vội chạy trở vào trong. Nguyễn Huệ vừa uống rượu vừa cười ha hả nói – Con voi kia thật xảo quyệt, hay là thầy Cống Chỉnh, người tài giỏi nhất Bắc Hà thử lừa nó xem ai cao tay hơn! – Ấy… Ngài quá lời rồi… Tôi quen thuộc nghề thủy chiến chứ voi ngựa thực chẳng rành rẽ cho lắm! Nguyễn Hữu Chỉnh run sợ không dám nhìn vào mắt Long Nhương tướng quân, các tướng lĩnh khác cũng đùn đẩy qua lại, đến cuối cùng già làng đành thở dài tâu với vua Thái Đức – Con vật này ác nghiệp đầy mình, không sợ trời đất, chỉ có cách thiêu sống nó mà hiến tế cho thần Lửa… Vị già làng nói chưa dứt câu, thì đột nhiên mọi người nháo nhào đứng dậy, cùng nhìn ra khoảng sân. Một cảnh tượng lạ lùng diễn ra dưới ánh trăng mờ ảo, con voi trắng khổng lồ đang kéo lê đoạn dây xích tiến về phía cái bóng đen, từng bước đi rất thoải mái, vô tư. Tiếng nhạc cất lên, khi trầm lúc bổng, du dương vô cùng. Con voi trắng đang mưu tính điều gì đó? Sớm thôi, nó sẽ tung vòi siết chết cái bóng kia, rồi giẫm đạp y thành một mớ máu thịt bầy nhầy. Ai cũng nín thở dõi theo nhất cử nhất động của con voi. Tàn lửa lắc rắc rơi vào khoảng không u tịch, mấy vò rượu lăn lóc đổ vấy xuống sàn nhà. Con voi trắng thôi gầm thét, nó chỉ phát ra những tiếng thở nhè nhẹ, tĩnh lặng như loài mãnh hổ sắp sửa vồ mồi. Trần Quang Diệu chợt phát giác điều gì đó bất ổn, ông siết chặt thanh đại đao thủ thế, tuy nhiên với khoảng cách này muốn ra tay ứng cứu cũng khó lòng thực hiện. Thấy tình hình nguy cấp, Long Nhương tướng quân liền nhanh trí nhặt khẩu hỏa súng chĩa về phía đầu voi, nếu nó dám manh động sẽ lập tức khai hỏa, bắn cho máu thịt tan tành. Ngoài kia, không hề quan tâm đến sự lo lắng bồn chồn của hai vị chiến tướng, cái bóng cứ đứng tĩnh lặng, thư giãn, để mặc con voi trắng giơ chiếc vòi khổng lồ cuộn lấy thân người mỏng manh. Con voi nhấc bổng cái bóng lên cao, thậm chí tung hứng, xoay trở nhiều vòng. Cuối cùng, loài hung thú cẩn trọng đặt cái bóng lên đầu mình, cái bóng càng liều lĩnh hơn, leo trèo khắp lưng voi, vuốt ve cặp ngà đồ sộ, hay thì thầm điều gì đó vào tai voi. Quan tướng Tây Sơn tò mò tiến lại gần, thì bất chợt Trần Quang Diệu hô to – Là em hả Thị Xuân? * Thế là con voi trắng theo chân vua quan Tây Sơn từ miền thượng đạo xuống đồng bằng, vào thành Hoàng Đế. Ở đó, nó đã đại náo một phen trong lúc nữ tướng Bùi Thị Xuân đi vắng. Voi phá tan cả một dãy phố, xém nữa thì gây ra án mạng thảm khốc. Hay ban đêm, lúc nàng ngủ, nó thừa cơ húc đổ mấy gốc cây cổ thụ, sau đó tông sập luôn tường thành. Nàng phải ngồi hát cho nó nghe, vỗ về trò chuyện voi mới chịu yên. Buổi sáng, người ta thường thấy hai chủ tớ đi du ngoạn khắp vùng đất Quy Nhơn, Bình Định. Khi thăm thú vườn tược, lúc nghỉ chân dưới tháp Cánh Tiên, ngắm cảnh đê điều làng xóm hồi phục sau cơn binh biến. Nhưng được một lúc thì con voi trắng lại giở chứng, hùng hục giẫm nát mấy khoảnh lúa đang trĩu hạt. Voi đuổi theo đàn chim nháo nhác, voi đuổi theo cái bóng của mây, voi muốn tìm một khu rừng hoang sơ không có con người. Nhưng vô vọng, tận cùng dải đất này là biển cả bao la, là bờ cát dài tít tắp. Ở đó, cỏ không thể mọc, voi biết lấy gì mà ăn? Vậy là voi trắng khổng lồ quỳ sụp trên đồi cát cháy, không chạy nữa, ngoe nguẩy cái vòi chờ nàng đến trách phạt. – Biết phạt mày sao đây? – Bùi Thị Xuân khẽ sờ vào những mảng xăm kim loại trên mình voi – Cực hình đau đớn nhất mày cũng đã trải qua, không có gì trên đời này khiến mày sợ hãi nữa, thôi thì xem như mày nợ tao nghen! Yên ổn được vài ngày, nữ tướng Bùi Thị Xuân đem voi trắng vào trường thao luyện cùng những con voi khác, ngẫm nghĩ ở chung với đồng loại nó sẽ hiền lành hơn. Nhưng voi trắng vốn là một sinh vật tách biệt và kiêu hãnh. Nó ngang nhiên dùng cặp ngà khổng lồ, vô địch của mình húc bị thương ba thớt voi của triều đình, sau đó quậy phá tanh bành cả trường bắn kề bên. Buổi chiều, hai chủ tớ lại ra biển lặng nhìn lớp lớp sóng cả, giọng nàng buồn thiu – Nếu mày không chịu đổi tính cứ quậy phá như vầy, thì tao còn bị quở phạt dài dài voi à… Con voi trắng cúi đầu bên nàng, từng hơi thở nhè nhẹ, mắt lim dim, như cố gắng lắng nghe và đồng cảm. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Lúc lên thuyền để trẩy binh vào Gia Định nó len lén đạp vỡ ván gỗ, khiến thuyền thủng một lỗ to tướng, xém nữa là chìm chết mấy trăm mạng người. Dã tính của nó vẫn vậy, sự xảo quyệt của nó không thay đổi, chỉ là lúc có nữ tướng bên cạnh, nó giả vờ ngoan ngoãn nhằm đánh lừa mọi người. Đến khi đánh nhau với quân Xiêm, nó hiện nguyên hình là một con hung thú đầy ác tâm và bạo ngược, voi trắng cố tình nghiêng mình hứng đạn pháo bay về phía bành voi, may mà nữ tướng nhảy xuống kịp. Thế là con voi trắng khổng lồ không cần người điều khiển, tự do xông pha trận mạc, nó hùng hục lao về phía trước, gặp ai giết nấy, giẫm đạp, quăng quật vô số quân địch. Nó húc chết sáu con voi Xiêm, giày xéo cả một vùng thành bãi lầy đẫm máu, trước khi kiệt sức nằm thở hổn hển trên gò đất. Ai cũng sợ hãi khi chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp đó, duy chỉ có nữ tướng là vẫn can đảm đến bên cạnh voi trắng, nhẹ nhàng rút những mũi tên nhọn, dùng thảo dược bôi lên mình voi. Vết thương cũ và mới, máu đen sậm rỉ rả phía sau những mảng xăm bằng kim loại. – Chắc mày đau đớn lắm phải không? Nàng trò chuyện với nó, vuốt ve trán voi, giọt nước mắt cảm thông chẳng biết có tác dụng gì không, nhưng nàng vẫn khóc, bằng trái tim giàu cảm xúc của con người. * Giặc Xiêm bị đánh tơi bời, đất Gia Định tạm thời yên ổn. Bùi Thị Xuân tiếp tục cưỡi voi trắng khổng lồ theo chân Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ tiến công ra Bắc. Trận đầu là chiến dịch Phú Xuân, quân Trịnh chống trả rất quyết liệt. Nàng dẫn binh sĩ đánh thẳng vào lũy Trấn Ninh. Con voi tinh ranh ban đầu rất nghe lời, đi theo đúng sự điều khiển của nàng, phía sau là hai chục thớt voi thiện chiến khác. Nhưng đến khi giáp công, voi trắng bất chợt tách hàng ngũ, tông thẳng vào cổng thành. Với sức mạnh bạt núi của loài hung thú, cánh cổng gỗ nhanh chóng bị phá sập, voi chạy một hơi vào thành địch, càn quét băng băng qua mưa tên bão đạn. Quân Trịnh ném hỏa cầu về phía bành voi, dùng cung tên bắn xối xả, Bùi Thị Xuân chống đỡ đến kiệt sức. Tình thế như ngàn cân treo sợi tóc, bốn phía đều là quân địch, lửa cháy mù mịt. Nàng ôm chặt đầu voi than trách – Mày thấy chưa, mày muốn hại tao nhưng lại khiến cả hai cùng gặp nguy hiểm, địch vây tứ phía, biết làm sao bây giờ? Hỏa cầu thi nhau phát nổ, giải phóng những cuộn lửa nóng hực. Lửa đuổi theo dấu chân voi, lửa xoáy tròn, lan rộng. Những mảng hình xăm bằng kim loại trên mình voi từ từ bắt lửa, sáng rực lên. Kiệt tác càng phản chiếu đẹp đẽ, con voi càng đau đớn khủng khiếp. Voi gào thét, quăng quật hết súng pháo và ống đồng. Voi lao đầu xuống hầm bẫy, đứng chôn chân trong tàn tro. Bốn bề lửa vẫn cháy, chiến tranh quay cuồng như lò bát quái. Người ta tiếp tục bắn giết nhau. Cơn cuồng loạn của voi trắng, cơn cuồng loạn của đất trời. Nữ tướng thu song kiếm, bắt chéo trước ngực. Nàng thôi không chống đỡ nữa, chỉ ngẩng đầu nhìn cuộn mây vũ tích chất chồng – Mưa… Mưa rồi… Những hạt nước nặng nề vỡ tan trên trán người, lộp độp thấm ướt cây cỏ. Mưa lớn hơn, thoáng chốc bao trùm trần thế. Nghĩa quân Tây Sơn tận dụng thời cơ tràn vào thành lũy, tàn quân Trịnh vứt hết súng pháo lũ lượt đầu hàng. Con voi trắng quỳ sụp xuống, lửa đỏ trên mình nó từ từ tắt ngấm, voi nằm giữa bùn lầy rất lâu, tận hưởng phút mát dịu hiếm hoi của trời đất. Bùi Thị Xuân thở phào nhẹ nhõm. Chiến tranh trôi qua, mây chuyển gió dời, ngổn ngang cờ thương, giáo gãy ngoài kia. Tất cả dần bị thời gian xóa sạch hết, chỉ còn bờ cát êm đềm. Đến cuối ngày, nàng dẫn con voi ra biển rộng, những chiến thuyền khổng lồ của Tây Sơn đang hiên ngang cập bến. Nàng vuốt ve ngà voi, nó lắc lư cái đầu tỏ ý thuần phục – Nghe nói chúa công muốn đánh thẳng ra Bắc Hà, lật đổ họ Trịnh, thống nhất giang sơn Đại Việt… Chúng ta lại để sổng mất tên gian tặc Nguyễn Ánh, bây giờ hắn đang ở Xiêm La, sống vất vưởng như cái bóng ma chờ ngày phục vị. Kẻ thù cũ vẫn còn, kẻ thù mới đang đợi chúng ta ở phía trước… Hành trình vẫn còn dài lắm voi trắng à… Hay tao gọi mày là Hỏa tượng nhé… Hỏa tượng, mày có sợ chiến tranh không? * Không sợ hãi, Hỏa tượng gầm lên kiêu hãnh. Nó yêu thích giết chóc, nó say mê phá hủy tường lũy và thành trì. Đúng một tháng sau, quân Tây Sơn tràn vào Thăng Long như vũ bão. Chúa Trịnh, một dòng họ từng khống chế thiên tử, cai trị Bắc Hà ngót hai trăm năm sụp đổ, “kiêu binh” tan tác khắp nơi. Bùi Thị Xuân cưỡi voi trắng diễu hành quanh đất Thăng Long đô hội. Dân Bắc Hà đổ ra xem chật cả đường, có người hân hoan, có người sợ hãi, có kẻ âm thầm mưu tính. Chúa Trịnh và chúa Nguyễn đánh nhau hơn trăm năm, bảy lần đại chiến bất phân thắng bại, vậy mà Tây Sơn hưng khởi mới vài năm đã lật đổ cả Trịnh Nguyễn, lập nên chiến công vang trong lừng sử sách. Vua Lê Hiển Tông rất xem trọng Nguyễn Huệ, sắc phong ngài làm Uy Quốc công, còn gả cô công chúa tài sắc là Lê Ngọc Hân cho vị anh hùng. Từ đây đất nước sẽ thanh bình, bốn phương yên ổn ư? Nàng ngồi bên dòng Nhĩ Hà, cạnh chú voi trắng khổng lồ, đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, những tòa lầu mái ngói rêu phong, cầu gỗ, hồ sen, vườn liễu rũ. Cảnh vật tuy đẹp đẽ nên thơ nhưng lòng người sao cứ buồn bã, ưu phiền. – Chưa đâu, chiến tranh còn lâu lắm mới kết thúc Hỏa tượng à… Những cung điện mới mọc trên tàn tích của triều đại cũ. Dòng họ này bị tiêu diệt, dòng họ khác bước lên ngai vàng. Từ Đại La đến Thăng Long, Đông Đô lại đổi thành Đông Kinh. Kẻ Chợ thuyền buôn tấp nập, bốn bề sông ngòi bao quanh. Đồng bằng trù phú, ruộng lúa tốt tươi. Phủ chúa Trịnh kia, mấy trăm tòa lâu đài cung khuyết, cung vua Lê đó, thâm nghiêm giữa chốn kinh kỳ. Tiếc rằng Uy Quốc công Nguyễn Huệ “phù Lê” chưa được bao lâu, thì vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đích thân ra Bắc Hà triệu hồi người em trở về – Bắc Hà là nước lớn, tuy dẹp yên được một lúc nhưng khó thể khống chế lâu dài, em phải trở về Thuận Hóa, toàn tâm toàn ý ngồi vào chiếc ghế Bắc Bình vương, như vậy là đủ. Vua Thái Đức vừa khuyên răn vừa cảnh cáo em mình. Những cuộc hành quân dài tiếp nối nhau, ý chí người này chồng chéo lên ý chí kẻ khác, đất Thuận Hóa quá nhỏ bé so với khát vọng của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Ngồi ngắm sông Hương mùa nước lũ, Bùi Thị Xuân thủ thỉ trò chuyện cùng voi trắng – Chúa công lại sắp sửa động binh, lần này không đánh giặc ngoài nữa mà hai anh em họ nồi da xáo thịt lẫn nhau… Hỏa tượng à, mày có sợ chiến tranh không? Vì mâu thuẫn trong chuyện Bắc Hà, vua Thái Đức đem quân hỏi tội em trai, Bắc Bình vương phản kháng bằng cách huy động một lực lượng hùng hậu bao vây thành Hoàng Đế ngặt nghèo. Những thớt voi gầm thét suốt ngày đêm, súng pháo nã về phía thành trì không ngớt. Tình thế nguy nan buộc vua Thái Đức phải lên đầu thành khóc lóc xin giảng hòa, Nguyễn Huệ nể tình anh em nên đồng ý lui binh. Tiếng là hòa hoãn nhưng ai cũng trong tâm thế dè chừng đối phương, nội bộ Tây Sơn rạn nứt nghiêm trọng. Chiến tranh vẫn âm ỉ như tàn lửa chờ ngày bùng phát. Nữ tướng Bùi Thị Xuân cưỡi voi trắng vượt Hải Vân quan, trùng trùng mây núi chất chồng lên nhau, cây cối xanh tươi kéo dài ra biển rộng. Nàng thầm nghĩ, công cuộc nhất thống giang sơn hãy còn xa lắm. Thuận Quảng vừa yên thì Bắc Hà lại có biến, Nguyễn Hữu Chỉnh lấn quyền vua Lê, Thăng Long hỗn loạn, lòng người ly tan. Bắc Bình vương Nguyễn Huệ lập tức cử Vũ Văn Nhậm xuất chinh, hành quân thần tốc, đánh cho thầy trò lão Cống Chỉnh tan tác. Tuy nhiên, vua Lê Chiêu Thống cũng bỏ ngai vàng chạy mất, loạn lạc tiếp nối loạn lạc, như ngọn lửa cháy lan vô phương dập tắt nổi. Thôi thì cứ để ngọn lửa thiêu trụi cả khu rừng, tận diệt hết những tàn dư, cặn bã. Đề rồi sau bão tố, cây cối sẽ hồi sinh tươi tốt hơn xưa. – Mày nghĩ chúng ta có thắng nổi quân Thanh không? Nữ tướng Bùi Thị Xuân ngồi trên bành voi, theo chân Quang Trung hoàng đế trẩy quân ra Bắc. Hai mươi chín vạn quân Thanh thừa cơ xâm lược nước ta, vua Lê Chiêu Thống hèn hạ luồn cúi với tướng giặc. Vận nước mong manh, dân chúng khổ sở. Dãy Tam Điệp đây, ngăn cách đất Thanh Nghệ với vùng đồng bằng Bắc Hà, chỉ cần tiến vài bước nữa, lửa đỏ sẽ bừng lên, xoay vần, đuổi theo dấu chân voi mãi mãi. Hỏa tượng gầm thét trong đêm, hàng hàng voi chiến có gắn cả hỏa súng trên lưng tấn công dồn dập vào đồn Khương Thượng của quân Thanh. Lũ giặc không sao chống đỡ nổi nguồn sức mạnh khủng khiếp mang tên Tây Sơn, lớp bị giết, lớp bị voi giày, xác chết chất thành mười hai gò cao quanh Đống Đa. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, quân Thanh nhanh chóng tan vỡ. Từ Đống Đa đến Thăng Long là đại thắng, chiến công lừng lẫy mang tên Quang Trung hoàng đế. Tôn Sĩ Nghị nghe tin các đồn lũy vùng ven bị hạ, cuống cuồng bỏ hết ba quân chạy trước. Ngày mồng Năm, Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long, khói súng ám đen áo bào, nhân dân đổ ra nghinh đón chật cả đường. Trong lúc mọi người đang ăn mừng chiến thắng, thì nữ tướng Bùi Thị Xuân một mình cưỡi Hỏa tượng rảo quanh kinh kỳ. Chỉ mới mấy năm mà cảnh tượng tiêu điều đến khó tin, phủ chúa bị thiêu trụi, cung vua trống rỗng, bao dinh thự nguy nga ngày nào giờ vắng tanh. Nàng dừng chân bên dòng sông Nhĩ Hà, vẫn trầm ngâm suy nghĩ về tương lai – Sông này sâu bao nhiêu trượng, mày có thể chở tao bơi qua bờ bên kia không? Tận cùng con đường này là gì? Chiến thắng rồi nhưng chiến tranh mãi chưa kết thúc. Quân Tây Sơn trở về Thuận Hóa sau khi tình hình Bắc Hà tạm yên. Bùi Thị Xuân cưỡi Hỏa tượng băng qua lũy Trấn Ninh. Nước sông Gianh mãi mãi u buồn như vậy. Biển trời, cát trắng, núi đồi, đầm sâu. – Nghe nói Nguyễn Ánh vừa thu phục được đất Gia Định, Đồng Nai. Dân Nam Bộ rất trung thành với họ Nguyễn. Chúng đang xây một tòa thành khổng lồ trên những dòng sông. Chúng đang đúc súng lớn, đóng thuyền to chuẩn bị chiến tranh một lần nữa… Một lần nữa, Hỏa tượng, mày có đủ sức mạnh để húc sập thành Bát Quái không… Mày có sợ chiến tranh không? Con voi trắng khổng lồ hơi nghiêng đầu rồi lặng thinh. Nó không thể trả lời, nó không hiểu nàng nói gì. Nó là một con voi hung hãn với đôi mắt đỏ rực. Nó luôn chuẩn bị tinh thần để giết chóc, tàn phá. Nhưng hôm nay nó thật lạ, voi đón nhận hai từ “chiến tranh” bằng ánh mắt buồn thảm và thái độ lãnh đạm, thờ ơ. Có thể nó đã đổi tính sau nhiều năm theo nàng, được nàng huấn luyện, vỗ về. Có thể nó đã quá mỏi mệt với những chuyến hành quân dài, rất dài. Hoặc có thể, nó đã chán ghét con người, chán ghét chiến tranh đến cùng cực. * Và cuối cùng, nàng lại trở về lũy Trấn Ninh này. Lũy Trấn Ninh, lũy Thầy, khu thành lũy ngăn cách non sông hơn một trăm năm mươi năm trời. Đàng Trong và Đàng Ngoài, chúa Trịnh và chúa Nguyễn bảy lần đại chiến khiến máu chảy thành sông, dân chúng khổ sở trong cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn. Khởi nghĩa Tây Sơn bùng lên như bão lửa, lần lượt đánh đổ chúa Nguyễn, chúa Trịnh, hạ bệ vua Lê, chế ngự giặc Tàu Ô, đánh đuổi quân Xiêm ngang ngược, đại thắng hai mươi chín vạn quân Thanh. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, định đô ở Phú Xuân, mở ra kỷ nguyên nhất thống thiên hạ. Cứ tưởng từ đây đất nước sẽ yên ổn, nhân dân an hưởng thái bình. Nhưng không ngờ ngọn lửa chiến tranh vẫn bám theo dấu chân voi, xoáy tròn và lan rộng hơn. Thủy chiến Thị Nại thiêu rụi tất cả binh thuyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, Nguyễn Ánh từ Gia Định tiến công ra Bắc, vây kín thành Hoàng Đế. Giữa tình cảnh ngặt nghèo đó, vua Quang Trung đột ngột qua đời, không lâu sau Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc cũng lâm trọng bệnh mà mất. Sau nhiều xáo trộn trong nội bộ Tây Sơn, nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang Diệu đã gạt bỏ tư thù, bắt tay làm hòa với tướng Võ Văn Dũng, cùng chống đỡ đại nghiệp Tây Sơn buổi xế chiều… Và tàn cuộc, thủy chiến Thị Nại lần hai đã thiêu trụi toàn bộ thủy quân Tây Sơn. Và tàn cuộc, đô thành Phú Xuân thất thủ, nữ tướng Bùi Thị Xuân hộ giá vua Cảnh Thịnh bỏ chạy ra Bắc Hà, nương nhờ binh lực của Khang công Nguyễn Quang Thùy. Bây giờ nàng đứng ở đây, lũy Thầy xa xa, lũy Trấn Ninh đồ sộ, quân Nguyễn đã thu phục được toàn bộ Nam Hà. Vua Cảnh Thịnh ngự giá thân chinh, quyết sống mái với Nguyễn Ánh trong trận đánh cuối cùng này. Ba vạn quân gào thét dưới mưa giông, thề tử chiến để lấy lại niềm kiêu hãnh mang tên Tây Sơn. Huyền thoại là bất tử, huyền thoại không thể chết. – Chặt đầu Nguyễn Ánh, trung hưng Tây Sơn! – Chặt đầu Nguyễn Ánh, trung hưng Tây Sơn! – Giết! Giết! Giết! Nữ tướng Bùi Thị Xuân ngồi trên bành voi, vỗ về loài hung thú. Con voi khổng lồ này từng húc sập vô số thành lũy của giặc, ngạo khí ngút trời, hôm nay nó có đủ sức công phá lũy Trấn Ninh, lật ngược thế cờ hay không? Nàng không biết, những dự cảm, bất an cứ miên man, trôi nổi trong đầu. Nàng không biết, nước cờ này đã đánh sang sông, chẳng thể nào lùi bước được nữa. Mấy chục thớt voi dàn hàng ngang rống lên như sấm sét, quân Tây Sơn theo gót nàng đánh riết vào lũy Trấn Ninh, pháo súng từ trên lũy bắn xuống như sao sa chớp giật, nhưng họ không bỏ cuộc. Lớp trước ngã xuống, lớp sau nhanh chóng tiến lên. Nàng cầm quân không mệt mỏi, đánh từ sáng đến chiều, mặc kệ máu và mồ hôi ướt đẫm giáp bào. – Mọi người cố gắng lên, thắng trận này đại thế Tây Sơn sẽ hồi phục, thắng trận này chúng ta cùng gầy dựng lại giang sơn! Con voi trắng Hỏa tượng húc sầm vào tường lũy, một cú va chạm khủng khiếp, những con voi khác thấy thế cùng lũ lượt ùa lên. Hơi nao núng một chút, lũy Trấn Ninh vẫn đứng sừng sững không chịu đổ sập. Có lẽ cú húc chưa đủ lực, có lẽ sức mạnh của voi trắng đã giảm đi nhiều sau hàng chục năm chinh chiến gian khổ. Có lẽ ông trời không còn đứng về phía Tây Sơn nữa. Mây gió trôi dài, lòng người tản mác. Nhưng nàng không bỏ cuộc, nữ tướng quyết định tập trung hỏa lực đánh dồn dập vào một điểm, quân lính trèo lên những cái xác voi để công thành. Trận chiến diễn ra ngày càng khốc liệt hơn. Quân Nguyễn từ thế khinh thường chuyển sang sợ hãi, sức chống đỡ giảm dần. Bầy voi rống lên điên cuồng, pháo súng nổ tung trời – Lũy Trấn Ninh sấp thất thủ rồi, quân Nguyễn đang tháo chạy kìa! Nữ tướng tự tay thúc trống trận liên hồi để cổ vũ tinh thần binh sĩ. Và tàn cuộc, có gì đợi chờ nàng phía trước? Khi cổng thành sập xuống, một khu lũy trống rỗng hiện ra trước mắt Bùi Thị Xuân. – Bẩm, lũy Trấn Ninh trống rỗng, quân Nguyễn tháo chạy hết rồi. – Quân Nguyễn chạy đi đâu? – Nàng trỏ kiếm điều động đội khinh kỵ nhanh chóng truy lùng. – Bẩm, có tin báo, sự việc vô cùng nguy cấp! – Chuyện gì? – Nữ tướng đứng thẳng trên bành voi cố phán đoán tình hình. – Quân Nguyễn… chúng đang vượt sông tập kích… ở phía sau lưng quân ta… Nguyễn Ánh thừa cơ đại quân Tây Sơn đang tập trung công phá lũy Trấn Ninh, liền dùng kế “bắt giặc bắt tướng”, lùa quân vượt sông Gianh đánh tập hậu vào bản doanh Tây Sơn. Vua Cảnh Thịnh đang ngự chiến ở đó tưởng nguy khốn, hoảng hốt ra lệnh lui binh. Đại thế Tây Sơn dần tan vỡ, biết bao xương máu đổ xuống những tưởng có thể giành chiến thắng, rốt cuộc hóa hư không. Từ hai trận thủy chiến Thị Nại, cuộc vây khốn thành Bình Định, giờ đến trận Trấn Ninh này đã chứng tỏ cơ mưu của Nguyễn Ánh không phải tầm thường. Dưới vòm trời đất chỉ có vua Quang Trung mới đủ sức áp chế nổi Nguyễn Ánh. Nhà vua mất rồi, cơ nghiệp Tây Sơn dần lụi tàn theo cát bụi. Bùi Thị Xuân tức tốc đuổi theo nắm áo bào của vua Cảnh Thịnh, khuyên nhà vua cố đánh. Tuy nhiên tin dữ lại dồn dập truyền đến, Nguyễn Văn Trương vừa phá tan thủy binh Tây Sơn trên cửa biển Nhật Lệ, tướng sĩ Tây Sơn đều thất thần, mạnh ai nấy vứt vũ khí tháo chạy thoát thân. Và tàn cuộc, Hỏa tượng bị kẹt một mình trên chiến trường, nó vẫn kiên cường chiến đấu, quăng quật, giày xéo điên cuồng. Quân Nguyễn dùng súng lớn bắn phá, nó tung người né tránh. Quân Nguyễn dùng hỏa đồng đốt cháy rang một vùng cát sỏi, nó khốn khổ chống đỡ. Quân Nguyễn dùng câu liêm móc rách toạc hết thịt da voi trắng. Nó khuỵu xuống, nó đã quá già và mỏi mòn. Hỏa tượng cố ngẩng đầu nhìn về phía tàn quân Tây Sơn đang tháo chạy, nó muốn nhìn thấy bóng dáng nàng lần cuối, vị nữ tướng cả đời hiên ngang. * Hỏa tượng bị nhốt trong thành Phú Xuân, bị xích vào cột đồng lớn. Quân Nguyễn dần khám phá ra bí mật về hình xăm trên mình voi. Họ dùng hỏa dược thiêu đốt voi trắng mỗi ngày, mỗi ngày những đường nét hoa văn kia lại sáng rực lên. Tuyệt tác, người ta thưởng thức tuyệt tác bằng ánh mắt say mê thán phục. Người ta không quan tâm đến nỗi đau của nó. Người ta không quan tâm đến nỗi đau của kẻ thù. Nó nằm gục xuống đá sỏi, nó ngày càng hung hăng hơn, nó gào thét trong bất lực. Vua Gia Long từng nghe danh tiếng con voi trắng khổng lồ, nay ngự giá đến xem, nhưng tất cả những gì nhà vua được chứng kiến là một con quái vật đen đúa, lở loét, gầy đến trơ xương. Thật thảm hại, ngài từng đinh ninh mình sẽ cưỡi trên lưng Hỏa tượng, diễu hành khắp đô thành Phú Xuân ăn mừng chiến thắng. Bên dưới muôn dân thi nhau tung hô, ca tụng chiến công hiển hách của ngài. Nhưng cuối cùng kế hoạch kia phá sản. Nó sắp chết, không, không thể để nó chết quá dễ dàng. Nhà vua đanh mày nói “Phải giữ nó sống, chờ ngày đoàn tụ với chủ nhân.” Con voi thôi bị tra tấn, người ta bôi thuốc và chăm sóc nó đàng hoàng hơn. Hằng đêm nó kêu gào thảm thiết, dưới ánh trăng, trong bốn bờ tường lạnh ngắt. Nó nhớ nàng, người quản tượng có trái tim đa sầu đa cảm. Nó nhớ rừng già, nó ghê sợ thế giới loài người. Nó ghê sợ chiến tranh và mùi thuốc súng tanh tưởi. Nó muốn trầm mình xuống dòng suối xanh mát của núi rừng. Vĩnh viễn. Vĩnh viễn là bao lâu? Một tháng? Hai tháng? Ba tháng trời trôi qua. Và cái ngày kinh khủng kia cũng đến. Người ta dẫn nó đi gặp chủ nhân của mình, ở một nơi mà loài người gọi là pháp trường. Nữ tướng Bùi Thị Xuân bị trói vào cột gỗ, người ta ép nó phải giết bà, nó chần chừ không dám lao đến, nó ngoan cố lùi sát vách tường. Quân Nguyễn dùng súng bắn ầm ĩ, nó gầm rống phản kháng. Quân Nguyễn tưới hỏa dược khắp mình voi rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa hung bạo, ngọn lửa nhanh chóng lan tràn khắp cơ thể voi trắng, những hoa văn thêm một lần sáng rực rỡ. Lũ người xung quanh say mê ngắm nhìn tuyệt tác, tuyệt tác được vẽ lên bằng nỗi thống khổ của kẻ khác. Ai cũng hân hoan chỉ có nữ tướng là đau lòng. Bà nhìn vào mắt voi, nhẹ gật đầu. Con voi hoảng loạn lao tới dùng vòi tung bà lên trời. Theo thường lệ, nó phải giẫm nát xác tử tù, nhưng Hỏa tượng lại chạy vòng quanh pháp trường, da nó chảy xệ xuống và thứ hình xăm đẹp đẽ kia dần lẫn lộn với máu thịt, lụi tàn. Triều Tây Sơn oai hùng đã lụi tàn, vĩnh viễn. Nhưng ngọn lửa rực rỡ kia, mãi cháy bừng trong sử sách. * [Truyện đã có phiên bản sách giấy, được in trong tập Thánh Dực Dũng Nghĩa truyện. Bạn có thể đặt mua sách TẠI ĐÂY] Bạch tượng và Nữ tướng Hỏa Tước Nguyên Võ Thuồng luồng Thánh Dực Dũng Nghĩa truyện Ve sầu thoát xác
Thân thế và sự nghiệp Hết lòng vì nhà Tây Sơn Bị voi giày Được ca ngợi Có tấm lòng thương dân Không vì tình riêng Nỗ lực đến giây phút cuối cùng Bại trận vẫn hiên ngang Kết Trùng tên Xem thêm Tham khảo Chú thích Bùi Thị Xuân Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt Bảo tàng Quang Trung, Bình Định Tên bản ngữ 裴氏春 Sinh 1771 Mất 1802 Nguyên nhân mất Gia Long xử tử Quốc gia Việt Nam Quốc tịch Việt Nam Nghề nghiệp Đô đốc Kỷ nguyên Triều đại Tây Sơn Nổi tiếng vì nữ đô đốc trong triều đình Tây Sơn Quê quán thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Đảng phái chính trị Tây Sơn Phong trào chính trị khởi nghĩa Tây Sơn Đối thủ Nguyễn Ánh Phối ngẫu Thái phó Trần Quang Diệu Con cái Trần Thị Cúc Bích Xuân Cha mẹ Bùi Đắc Chí Bùi Thị Xuân chữ Hán 裴氏春; 17711 -1802 là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư2 , là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Thân thế và sự nghiệpBùi Thị Xuân là người ở thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.Bà là con gái của Bùi Đắc Chí. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền, nàng là người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, người con gái này đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Hết lòng vì nhà Tây SơnVới tài nghệ ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy 3 .Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương triều mới nhà Tây Sơn, trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc Hà Tuyên...Giữa lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, ngày 29 tháng 7 năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Kể từ đấy vương triều này bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà Trần Quang Diệu thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến khi nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần Quang Diệu cả sợ, phải kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, thì bà cũng nhận được lệnh hồi mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, chúa Nguyễn Phúc Ánh liền tổ chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành Quảng Nam, thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà, chúa Nguyễn thề sẽ sớm rửa mối nhục4 . Thấy Chúa Nguyễn rút lui hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn xếp việc triều chính...Mùa xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem quân đi hộ thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Bùi Thị Xuân bèn nắm áo ngự bào của nhà vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ Quảng Bình, cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng; thì đội quân của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa...5 Bị voi giàyĐược tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng Bùi Thị Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy Nhơn, nhưng vẫn gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo chống gia C. B. Mabon kểTrần Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc bằng đường thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì biết tin Nghệ An đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ chồng Quang Diệu đều bị bắt cả...Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn...6 Trước khi trích dẫn tài liệu của một giáo sĩ phương Tây tên là De La Bissachère người có dịp chứng kiến buổi hành hình được viết năm 1807, mô tả lại cái chết của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có lời giới thiệu như sauMẹ con bà Bùi Thị Xuân, người ta ý nói đến vua Gia Long cũng rất căm thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên nhân là bà đã điều khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã làm cho chúa Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn đến tài liệu của giáo sĩ De La BissachèreĐứa con gái trẻ của bà Bùi Thị Xuân Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!...Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau mông con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời...Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống to lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo...7 Được ca ngợiCông luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của Bùi Thị Xuân. Theo sử liệu, sở dĩ được vậy là vì trong cuộc đời bà có mấy sự việc đáng chú ý sau Có tấm lòng thương dânGặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hội lộ...bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành...Vì thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam nhất là ở huyện Quế Sơn nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn...8 Không vì tình riêngThái sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa huyện Tuy Viễn, là cậu của vua Cảnh Thịnh, và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, vì ông bị Võ Văn Dũng giết chết vì tội chuyên quyền. Bấy giờ, có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ...9 Nỗ lực đến giây phút cuối cùngĐề cập đến tinh thần quyết chiến thắng của Bùi Thị Xuân trong trận Trấn Ninh 1802, trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì 1854-1922 có đoạn Xuân hàn lãnh khí như tiễn đaoXuân phong xuy huyết nhiễm chinh bàoHoàng hôn thành dốc bi già độngHữu nhân diện tỷ phù dung kiềuPhu cổ trợ chiến Lương Hồng NgọcMộc Lan tòng quân Hoàng Hà KhúcThùy ngôn cân quắc bất như nhân ?Dĩ cổ phương kim tam đinh túc. Nghĩa làKhí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh bàoNơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hônCó người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dungThật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng HàAi bảo khăn yếm không bằng người ?Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân Bại trận vẫn hiên ngangNgoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, chúa Nguyễn bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chíTa và Nguyễn Huệ ai hơn?Bà trả lờiChúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước Nguyễn gằn giọngNgười có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?Bà đápNếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà...11 KếtBộ đồ thờ giản dị tại từ đường họ Bùi. Cổ vật hiện được trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung Bình Định, Việt Nam.Sử gia Phạm Văn Sơn, viếtNgười ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà còn ở chỗ có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công gây dựng một phần sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã bao phen xuất nhập chiến trường, vào sinh ra tử...12 Giáo sư sử học Nguyễn Khắc Thuần, viếtTrong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và trong lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một hiện tượng rất đặc biệt. Cùng với chồng và hàng vạn các nghĩa sĩ Tây Sơn, bà đã đi suốt cả một cuộc trường chinh ba chục năm trời, anh dũng chống cả thù trong lẫn giặc ngoài, một lòng một dạ vì sự nghiệp cứu dân cứu nước. Từ một phụ nữ bình thường, Bùi Thị Xuân đã trở thành một danh tướng được đời đời kính trọng...13 Cảm phục bà, một người không rõ tên, đã làm bài thơ sauVận nước đang xoay chuyểnQuần thoa cũng vẫy vùngLiều thân lo cứu chúaCông trận quyết thay khái khi lâm nạn!Kiên trinh lúc khốn cùngNgàn thu gương nữ liệtGương sáng hãy soi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút ký Còn mãi đến bây giờCác gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh tức phái của Bùi Thị Xuân đã bị Gia Long giết sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay hãy còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây ấy, bà Bùi Thị Xuân còn là một nữ tướng trẻ tuổi, xinh đẹp. Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà...bà còn giỏi cả việc đi buôn trầu ở An Khê, có tài thuyết phục người ở miền Thượng hơn cả Nguyễn Nhạc, giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ "nhất đẳng điền" tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục hécta để lấy lúa nuôi quân...Để đến nhà bà, chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quần áo. Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ 18 cho đến bây giờ!...14 Trùng tênGiống như trường hợp của Ngô Văn Sở, cũng có một nhân vật nữ tên là Bùi Thị Xuân làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, bà này được phong là Đệ Nhất Huân Thần của triều Nguyễn. Xem thêm Trận Trấn Ninh 1802 Trần Quang Diệu Tham khảo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4. Tủ sách sử học Việt Nam xuất bản, Sài Gòn, 1961. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Nguyễn Đắc Xuân, Khí phách Bùi Thị Xuân in trong Hương giang cố sự. Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Namtập 3. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tuyển tập tập 2. Nhà xuất bản Trẻ, 2002. Quách Tấn- Quách Giao, Nhà Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung Bình Định xuất bản, 2002. Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3. Nhà xuất bản Trẻ, 2007. Quỳnh Cư, Đô đốc Bùi Thị Xuân. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1982. Lê Minh Quốc, Các vị nữ danh nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Thu Hằng, Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động, 2008. Chú thích ^ TS. Đinh Văn Liên ghi Bùi Thị Xuân sinh năm 1752 Bình Định-Đất võ trời văn. Nhà xuất bản Trẻ, 2008, tức khi bị hành hình bà mới 50 tuổi. Song theo Gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải, thì Trần Quang Diệu sinh năm 1760. Vậy có thể bà cũng chỉ sinh ở khoảng thời gian này. Gia phả còn ghi rằng tên tục của bà là Út, tên thường gọi là bà Siêu, vì chồng bà từng được phong tước Siêu võ hầu theo Bùi Xuân, bài viết in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh An Giang và UBND thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009, tr. 168. ^ Theo "Cân quắc anh hùng truyện" của danh sĩ Nguyễn Bá Huân thì Nguyễn Huệ còn ban hiệu cho bà là Anh hùng cân quấc Cân quắc khăn trùm đầu của phụ nữ, chỉ người phụ nữ. Truyện này có in trong Bắc Bình Vương do Phạm Minh Thảo soạn Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2008. ^ Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, tr. 268. Trong sách Nhà Tây Sơn, thi sĩ Quách Tấn quê ở Tây Sơn còn cho biết ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút đánh tan 20 vạn quân Xiêm La, Trần Quang Diệu-Bùi Thị Xuân cũng đã lập đại công. Vợ chồng ông điều khiển bộ binh, tướng Võ Văn Dũng cùng Nguyễn Huệ chỉ huy thủy quân tr. 97. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng và cũng chưa tìm thấy ở tài liệu khác. ^ Theo Các vị nữ danh nhân Việt Nam, tr. 68. ^ Xem nguồn tham khảo và thông tin chi tiết tại trang Trận Trấn Ninh 1802. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4, tr. 239. ^ Chép theo đoạn trích in trong Việt Sử tân biên quyển 4, tr. 245-246. Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi... Tác giả Đặng Duy Phúc trong sách Việt Nam anh kiệt Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2004 cho biết thêm chi tiết Khi voi đưa chân toan chà đạp, bà đã thét lên một tiếng như sấm dậy khiến voi thất kinh phải thối lui, không chịu theo sự điều khiển của quản tượng. Cuối cùng, vua Nguyễn lệnh cho dùng hình phạt cột bà vào trụ sắt, lấy vải nhúng sáp nóng quấn khắp người bà rồi đốt cháy một cách man rợ... ^ Kể theo Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, tr. 77. ^ Kể theo GS. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005, tr. 292-293. ^ Chép theo Nhà Tây Sơn, tr. 193-194. ^ Kể theo Nhà Tây Sơn, tr. 201-202. ^ Việt sử tân biên quyển 4, tr. 245. ^ Danh tướng Việt Namtập 3, tr. 291. ^ Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 2, tr 242 và 247. Nguồn Wikipedia
Sống anh hùng, chết oanh liệt, cuộc đời của Bùi Thị Xuân - Trần Quang Diệu được đời đời ghi danh. Không chỉ ở quê hương, mà rất nhiều nơi đã lập đền thờ để ghi nhớ công ơn của hai người. Vì nghĩa lớn, gạt tình riêng Nhận được tin mật cho biết triều đình Tây Sơn lục đục, Nguyễn Ánh cầm quân tiến đánh Quảng Nam. Không ngờ gặp sự giáng trả của Bùi Thị Xuân, quân Nguyễn thua tơi tả phải rút lui. Bị thua mưu trí và võ công của đàn bà, Nguyễn Phúc Ánh thề sẽ trả thù sau này. Sau khi đánh lui quân Nguyễn, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về triều cùng chồng giải quyết cuộc xung đột. Mọi người lo sợ bà sẽ trả thù Võ Văn Dũng, vì Bùi Đắc Tuyên chính là cậu ruột của bà. Nhưng Bùi Thị Xuân đã gạt tình thân, vì nghĩa lớn, bỏ qua chuyện thù riêng nên Võ Văn Dũng rất cảm kích, nguyện kết tình huynh đệ sinh tử với Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng được cử cầm quân đánh thành Quy Nhơn do tướng Võ Tánh trấn giữ. Tình hình vô cùng nguy cấp, chúa Nguyễn định đem quân đến giải cứu. Biết đây là hai tướng tài giỏi nhất của Tây Sơn đang có mặt cả ở đây, Võ Tánh gửi thư khuyên chúa Nguyễn bí mật kéo quân ra đánh vào Phú Xuân, còn ông sẽ cầm chân họ. Đánh lâu không hạ được thành, Trần Quang Diệu sai đắp lũy xung quanh thành, chia quân bao vây bốn mặt. Võ Văn Dũng đem thủy binh đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn đặt pháo ngăn cản quân tiếp viện. Trong thành hết lương thực, Võ Tánh dùng mũi tên gắn thư bắn ra cho Trần Quang Diệu, trong thư viết "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại". Sau đó, Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu bát giác tự thiêu, hiệp trấn Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng trọng thể hai vị tướng tuẫn tiết, và tha cho tướng sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Tranh minh họa về đô đốc Bùi Thị Xuân. Ao trời nước vũng Phú Xuân bị mất, Bùi Thị Xuân dẫn quân hộ giá vua Cảnh Thịnh đi chiếm lại. Biết đã bị dồn đến bước đường cùng, Bùi Thị Xuân tự tay thúc trống trận dồn dập rồi liều chết cưỡi voi xông vào chiến lũy Trấn Ninh. Vốn đã từng nếm mùi thua trận trước vị nữ tướng oai phong lẫm liệt, quân Nguyễn sợ hãi xô nhau chạy. Chúa Nguyễn đem một cánh quân vượt sông Linh Giang tìm đường rút. Vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn đông, sợ quá bỏ chạy. Bùi Thị Xuân níu áo lại không được. Như rắn mất đầu, quân Tây Sơn vỡ trận. Đó là trận đánh oanh liệt cuối cùng của vị nữ tướng anh hùng. Từ Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cấp tốc trở về cứu Phú Xuân, nhưng đã quá muộn. Vua Cảnh Thịnh cùng một nhúm người đã trốn lên Bắc Hà. Trần Quang Diệu một mình vượt qua đất Lào rồi quay về Nghệ An, gặp lại được vợ ở vùng Quỳ Hợp. Không còn quân sĩ trong tay, hai mãnh tướng bị quan quân nhà Nguyễn vây bắt tại đây đem đóng cũi giải về Phú Xuân. Biết Trần Quang Diệu là một tướng tài, lại có lòng nhân tha cho toàn bộ quân sĩ trong thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh định thu phục ông đầu hàng, nhưng ông đã từ chối thẳng thừng. Bùi Thị Xuân bị trói đến trước mặt Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn tự đắc hỏi bà Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời Chúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn mảnh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Nguyễn Ánh đã từng trực tiếp bị bà đánh thua, nay lại bị bà sỉ nhục, nên căm hận lắm. Cả hai vợ chồng nữ tướng Bùi Thị Xuân bị đem ra hành quyết. Người ta kể lại khác nhau về trường hợp Trần Quang Diệu, có tài liệu cho biết ông bị xử chém, có tài liệu thì nói bị lột da. Còn Bùi Thị Xuân bị voi giày. Quấn quanh người tấm vải đỏ rực, bà đứng hiên ngang, hét to một tiếng làm bầy voi sợ hãi bước giật lùi. Quân lính được lệnh đốt hỏa pháo và đâm giáo nhọn thúc vào voi làm chúng hoảng loạn chạy xéo lên đè chết bà. Dân ta vẫn lưu truyền trường ca Cân quắc anh hùng truyện dài gần một ngàn câu thơ lục bát, ca ngợi và tiếc thương vị nữ tướng anh hùng "Chiều chiều nhìn ngọn non Tê/Nhớ người liệt nữ lòng tê tái buồn/Sử xanh chép để luôn luôn/Cử huân vi nghiệp truyền muôn vạn đời".
[VOV2] - Bùi Thị Xuân là một nữ tướng thời Tây Sơn. Bà là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đô đốc Bùi Thị Xuân là người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân chính là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất nhất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc "Ngay từ thời thiếu nữ, Bùi Thị Xuân đã là người có thiên hướng về võ nghệ và bà đã thực hiện chí hướng ấy của mình bằng cách rất chăm tập luyện võ nghệ. Thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân chính là vị quan đô thống nổi tiếng thời bấy giờ Ngô Mãnh. Với tài năng võ nghệ và với sự luyện rèn thì không lấy làm lạ khi phong trào Tây Sơn khởi dấy, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành nữ tướng dưới cờ của Tây Sơn tam kiệt. Và ngay từ khi cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia phong trào nghĩa quân Tây Sơn từ năm 1771 thì với tư cách là nữ tướng, Bùi Thị Xuân còn được nhận thêm 1 danh hiệu nữ tướng nữa ngoài danh hiệu Nữ tướng áo đỏ, đó là danh hiệu Nữ tướng "Tượng binh". Cũng theo nhà sử học Lê Văn Lan, không chỉ dũng cảm, có tài sử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn cung khi ra trận, nữ tướng Bùi Thị Xuân còn có biệt tài huấn luyện voi trận. Dưới quyền Đô đốc Bùi Thị Xuân có 5000 nữ binh và 200 thớt voi. Lực lượng tượng binh và nghệ thuật đánh trận bằng voi chiến là nét đặc sắc có một không hai của phong trào Tây Sơn cũng như lịch sử quân sự nước Việt thời đó "Tài võ nghệ của Bùi Thị Xuân lúc bấy giờ có chỗ để phô diễn ở việc luyện rèn và tổ chức nên 1 đội quân đặc biệt của nghĩa quân Tây Sơn, đó là voi chiến tượng binh. Tài liệu còn nói rõ đội tượng binh do Bùi Thị Xuân quản lý luyện rèn rất cẩn thận và tài năng chiến trận, khả năng sung sát cực kỳ lợi hại và đặc biệt đông đúc với số lượng 100 con voi". Tài năng của nữ tướng Bùi Thị Xuân còn thể hiện vào năm 1773, khi chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ mở rộng địa bàn đem toàn quân xuống đánh Quy Nhơn thì Bùi Thị Xuân một mình ở lại trông giữ và bảo vệ Hoàng thành. Về sự kiện này, Nguyễn Đức Nhuệ thông tin Có một sự kiện rất quan trọng là năm 1785, Nguyễn Ánh xin viện trợ từ Thái Lan tức là Xiêm 5 vạn quân đã theo chân Nguyễn Ánh về để chống lại Tây Sơn và Nguyễn Huệ đã bố trí một trận đánh trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút rất nổi tiếng tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Trong trận đó nhiều tư liệu xác minh là bà Bùi Thị Xuân cùng ông Trần Quang Diệu đã phụ trách mũi bộ binh để tấn công vào quân Chu Tăng, Chu Xương của Xiêm". Không chỉ giỏi giang võ nghệ, Bùi Thị Xuân còn thể hiện lòng thương dân khi được cử làm Trấn Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào và giúp cho dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục. Nguyễn Đức Nhuệ cho biết Bùi Thị Xuân được đánh giá là 1 trong 10 nữ tướng, 10 hiện tượng đặc biệt của phụ nữ Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Đối với vị Đô đốc này thì có lẽ là không có sử sách nào có thể mô tả hết được tinh thần, sự đóng góp, nhiệt huyết cho phong trào Tây Sơn. Một là bà đã từng được giao giữ chức Trấn thủ Quảng Nam trong thời điểm dân cư loạn lạc, đói kém, bà đã tổ chức sản xuất, chiêu tập nhân dân mở mang cày cấy, thành lập xóm làng trở nên một vùng rất an cư, lạc nghiệp… Năm 1801 khi Thiếu phó Trần Quang Diệu đưa đại quân từ Phú Xuân vào vây hãm và đánh hạ thành Quy Nhơn của chúa Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân ở lại kinh thành hộ giá vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Khi Nguyễn Ánh đưa thủy quân vòng qua Quy Nhơn bất ngờ đánh thẳng vào Phú Xuân, quân Tây Sơn ở đây chống cự không nổi, Bùi Thị Xuân đã phải đưa vua Cảnh Thịnh chạy thẳng ra Thăng Long. Mùa Xuân năm 1802, sau một năm củng cố lực lượng, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã cùng vua Cảnh Thịnh đưa quân vào để mưu việc lấy lại Phú Xuân nhưng bất thành. Đô đốc Bùi Thị Xuân anh dũng hy sinh khi 45 tuổi. Bà là một vị nữ anh hùng đã xây dựng nên triều đại Tây Sơn. Hiện nay, tại nhiều thành phố ở nước ta, tên bà được lấy để đặt tên cho những con đường và các trường học như một cách tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ với vị nữ tướng tài ba.
bùi thị xuân 2k3 chết