bí mật đời tư
2. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp: Điều 21 Hiến pháp năm 2013 đã có quy định như sau: “- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”. Thông tin về
Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Quyền đối
Khái niệm bí mật đời tư . 4 II. Một số ví dụ thực tế về vấn đề bảo vệ quyền bí mật đời tư . 10 1. Vụ thứ nhất: việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân 10 2. Vụ việc xâm phạm an toàn bí mật thư tín. 14 III. Giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp
Bí mật đời tư bị ảnh hưởng vì phiếu lý lịch tư pháp. Chưa hiểu quy định của Luật lý lịch tư pháp nên một số đại sứ quán, doanh nghiệp trong nước đã yêu cầu công dân bổ sung phiếu lý lịch tư pháp số 2 vào hồ sơ xuất cảnh hoặc định cư ở nước ngoài. “Bắt
Báo chí đăng tin đời tư người khác nhưng nếu không xin phép người đó thì bị coi là vi phạm pháp luật. Tiết lộ bí mật đời tư của người khác, đăng tin trên báo có thể sẽ làm ảnh hưởng đến nhân phẩm danh dự, thậm chí đẩy người đó vào tâm lý bi quan, sợ hãi
Xem lời bài hát Bí Mật Không Hoàn Mỹ / 不完美的秘密 ((Quãng Đời Còn Lại Xin Chỉ Giáo Nhiều Hơn Ost) do ca sĩ Ca sĩ Phùng Hy Dao (Feng Xi Yao) thể hiện: 微笑的注视着你. Wēi xiào de zhù shì zhuó nǐ. 是做过最多的练习. Shì zuò guò zuì duō de liàn xí. 有你的空间里空气都是甜蜜. Yǒu nǐ de kōng jiān lǐ kōng qì dū shì
Lừa Đảo Vay Tiền Online. Quy định về quyền bí mật đời tư trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện quyền bí mật đời tư và bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Đây là quyền nhân thân gắn liền với mỗi công dân. Pháp luật có những quy định về quyền bí mật đời tư không chỉ trong Bộ luật dân sự mà còn đề cập trong một số văn bản pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Bộ luật Tố tụng Dân sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Quản lý Thuế…cao nhất là được ghi nhận trong Hiến Pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo quyền bí mật đời tư của cá nhân. Mục lục bài viết 1 1. Quy định về quyền bí mật đời tư trong một số văn bản luật quốc tế 2 2. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp 3 3. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật báo chí 4 4. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật giao dịch điện tử 5 5. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật công nghệ thông tin Trong các công ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia không quy định về quyền bí mật đời tư mà quy định về quyền riêng tư. Có thể hiểu một cách chung nhất, quyền riêng tư là quyền bảo vệ đời sống của cá nhân mà các cá nhân, tổ chức khác không được xâm nhập hay công bố thông tin. Nội dung cơ bản của quyền riêng tư gồm có sự riêng tư về thông tin cá nhân, cơ thể, thông tin liên lạc và nơi cư trú. Về bí mật đời tư, chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm về bí mật đời tư nhưng xét về từ ngữ ta thấy, nội dung của quyền riêng tư rộng hơn nội dung của quyền bí mật đời tư. Như vậy, chúng ta có thể khai thác những quy định về bí mật đời tư trong quyền riêng tư ở một số công ước quốc tế. Trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 UDHR, Điều 12 ghi nhận “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân; mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.” Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ICCPR, Điều 17 nêu rằng “Không ai bị can thiệp một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.” Về cơ bản, cả Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đều ghi nhận giống nhau mỗi người đều được bảo vệ về những điều riêng tư trong đời sống cá nhân, gia đình, nơi ở và thư tín. Cả hai văn bản này đều có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam, mỗi cá nhân đều được Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền riêng tư này. 2. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp Điều 21 Hiến pháp năm 2013 đã có quy định như sau “- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. “- Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác”. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người chưa có văn bản hướng dẫn và nếu xảy ra vi phạm sẽ rất khó xác định thế nào là đời sống riêng tư nhưng quy định này đã mở rộng phạm vi hơn nhiều so với quyền bí mật đời tư. Ngoài ra, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thông tin bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn và khẳng định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về bí mật gia đình. 3. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật báo chí Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, báo chí là lĩnh vực có liên quan nhiều nhất đến bí mật đời tư cá nhân, đồng thời cũng là lĩnh vực mà việc xâm phạm bí mật đời tư cá nhân xảy ra mọt cách thường xuyên, như một sự việc hiển nhiên của ngành, thậm chí việc xâm phạm bí mật đời tư là một việc không thể thiếu nếu muốn có một bài báo “giật gân”, “nổi”, thu hút dư luận chú ý. Và những người bị báo chí xâm phạm bí mật đời tư phần lớn là những người nổi tiếng, bên cạnh đó thì mỗi cá nhân đều dễ dàng trở thành đối tượng bị xâm phạm bí mật đời tư trong giới báo chí. Khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Nghị định 51/2002/NĐ-CP hướng dẫn Luật Báo chí quy định “Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Khi báo chí công khai những hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư, có nhiều phản ứng trái chiều. Nhưng hầu như không ai đồng tình với việc thông tin cá nhân, bí mật của mình được đăng tải trên báo chỉ, được nhiều người biết đến, dù là tốt đẹp nhưng đó là những điều không mong muốn công khai. Luật chỉ quy định “không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó” mà không quy định về việc xin sự cho phép việc đăng ảnh. Thậm chí, cũng chỉ có quy định cụ thể về hình ảnh chứ chưa có quy định cụ thể về bí mật đời tư. Chính vì vậy mà hiện nay việc báo chí khai thách một cách công khai, tràn lan bí mật đời tư, đặc biệt là của người nổi tiếng là một việc phổ biến, thậm chí đã trở thành chuyện bình thường trên mặt báo. Quy định báo chí được quyền đăng thông tin, hình ảnh của cá nhân trong trường hợp” “Người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Bên cạnh đó, cũng không quy định khoảng thời gian được phép đăng tải những thông tin, hình ảnh của những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án. Có những trường hợp báo chí đăng tải lại thông tin của những vụ án đã xảy ra rất lâu, hay đăng tải thông tin theo kiểu “người một thời” trong khi những sự việc này đã là sự việc của quá khứ, những con người đó có thể đã trở về với cuộc sống của một người bình thường. Dù việc đăng tải lại những thông tin này với mục đích nào, việc đào bới lại quá khứ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của cá nhân người đó và những người thân xung quanh. 4. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật giao dịch điện tử Điều 46 Luật giao dịch điện tử 2005 quy định về Bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử “- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử. – Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài Giao dịch điện tử cũng là một lĩnh vực liên quan nhiều đến môi trường mạng, và việc xử lí thông tin trong giao dịch điện tử là việc mà không phải ai cũng biết, đòi hỏi có một trình độ chuyên sâu nhất định. Chính vì vậy việc rò gỉ thông tin khi giao dịch điện tử rất dễ xảy ra, khó kiểm soát, và đôi khi chính bản thân người bị xâm phạm cũng không biết. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử đã quy định về bảo mật thông tin tuy nhiên quy định này còn khá chung chung, cần làm rõ hơn, đặc biệt những trường hợp pháp luật có quy định khác cần quy định rõ ràng. 5. Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật công nghệ thông tin Điều 21 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quy định thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân trên môi trường mạng như sau “- Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. – Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác có trách nhiệm sau đây +Thông báo cho người đó biết về hình thức, phạm vi, địa điểm và mục đích của việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người đó; + Sử dụng đúng mục đích thông tin cá nhân thu thập được và chỉ lưu trữ những thông tin đó trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận giữa hai bên; + Tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá huỷ; + Tiến hành ngay các biện pháp cần thiết khi nhận được yêu cầu kiểm tra lại, đính chính hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này; không được cung cấp hoặc sử dụng thông tin cá nhân liên quan cho đến khi thông tin đó được đính chính lại. – Tổ chức, cá nhân có quyền thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác mà không cần sự đồng ý của người đó trong trường hợp thông tin cá nhân đó được sử dụng cho mục đích sau đây + Ký kết, sửa đổi hoặc thực hiện hợp đồng sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; + Tính giá, cước sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; + Thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Điều 22 Luật Công nghệ thông tin quy định lưu trữ, cung cấp thông tin cá nhân trên môi trường mạng “- Cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ thông tin cá nhân của mình trên môi trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ thông tin đó. – Tổ chức, cá nhân không được cung cấp thông tin cá nhân của người khác cho bên thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự đồng ý của người đó. – Cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin cá nhân”. Luật quy định khá chi tiết để đảm bảo quyền của mỗi người đối với thông tin cá nhân, đời tư trong môi trường mạng tuy nhiên việc thực hiện lại không hề dễ. Việc cá nhân bị xâm phạm đời tư hay thường gặp nhất là vi phạm hình ảnh đã xảy ra không kiểm soát nổi trên môi trường mạng hiện nay. Cũng có những trang mạng có chính sách bảo vệ người dũng tuy nhiên những chính sách này thiên về bảo vệ quyền tác giả nhiều hơn ví dụ như Youtube, còn các thông tin, hình ảnh cá nhân.. hiện nay chúng ta vẫn chưa kiểm soát được. – Quy định về quyền bí mât đời tư trong Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và Hiến, lấy xác năm 2006. Căn cứ Điều 11 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và Hiến, lấy xác quy định nghiêm cấm hành vi “Tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật.”. – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân. Căn cứ Điều 25 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân “Thầy thuốc có nghĩa vụ khám bệnh, chữa bệnh, kê đơn và hướng dẫn cách phòng bệnh, tự chữa bệnh cho người bệnh; phải giữ bí mật về nhưng điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời tư mà mình được biết về người bệnh…” Các quy định buộc bác sĩ, những người làm công việc chữa bệnh khác phải tôn trọng bí mật đời tư của người bệnh. – Quy định về quyền bí mật đời tư Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS Căn cứ Điều 8 Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người HIV/AIDS nghiêm cấm “Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người đó.” – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật Quản lý thuế 2006 Điều 6 Luật Quản lý thuế 2006 ghi nhận cho người nộp thuế có quyền “…3. Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật.” Và đây cũng được xác định là trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế. Do trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức, cá nhân phải nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ nộp thuế là bắt buộc, bất cứ chủ thể nào vi phạm nghĩa vụ này có thể phải chịu những chế tài nhất định. Tuy nhiên, những thông tin về người nộp thuế cũng được coi là bí mật đời tư và được bảo mật. – Quy định về quyền bí mật đời tư trong Luật Phòng, chống tham nhũng Căn cứ Điều 7 Luật phòng chống tham nhũng 2005 quy định người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có quyền được bảo đảm bí mật nội dung của bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật…”.
– Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”. – Tại Điều 38 BLDS hiện hành, có quyền bí mật đời tư, như sau “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Khoản 2 Điều 46 Luật GDĐT quy định“Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” – Điều 25 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 có quy địnhvề trách nhiệm của thầy thuốc “… phải giữ bí mật về những điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời tư mà mình được biết về người bệnh”. – Điều 125 BLHS có quy định Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, như sau “1. Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Phạm tội nhiều lần; d Gây hậu quả nghiêm trọng; đ Tái phạm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.” Do luật và các văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chưa có hướng dẫn cụ thể và cũng không quy định chi tiết thế nào là “bí mật đời tư”, nên đây cũng là vấn đề pháp lý gây tranh cãi nhiều nhất. Ý kiến chung nhất của các chuyên gia thì cho rằng “bí mật” là thông tin cần được che giấu, không công khai, chỉ một số ít người liên quan được biết. Ví dụ, nếu một đám cưới diễn ra công khai, nhiều người biết đến, tất nhiên sẽ không là chuyện “bí mật”. Còn vì sao có lễ cưới đó, có thể riêng tư vì một lý do tế nhị nào đó. Tuy nhiên nếu lý do này được nêu công khai từ một bên gia đình cô dâu hay gia đình chú rể của lễ cưới ấy, có lẽ mọi chuyện cũng khó thể gọi là “bí mật đời tư”. “Bí mật đời tư” là một cụm từ Hán – Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không muốn ai biết. “Tư” ở đây có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Bởi pháp luật hiện hành tuy có quy định nhưng không rõ ràng, thiếu cụ thể , nên đã gây khó khăn cho người dân khi muốn tiếp cận những thông tin cần thiết, mà theo họ, là “chứng cứ” cần thiết và quan trọng của vụ kiện dân sự, chính vì lẽ đó, trong nhiều trường hợp cơ quan chức năng đã vô tình đẩy người đi kiện vào “ngõ cụt” chỉ vì thiếu thống nhất chung về nhận thức thế nào là “quyền bí mật đời tư”. Dưới đây là trường hợp cụ thể, tác giả xin được dẫn chứng để minh họa cho nhận định trên. Theo đơn khởi kiện ngày 13/02/2014 của bà Nguyễn Thị L. trú tại ấpT, xã huyện C, tỉnh T, trình bày Ngày 12/5/1991 cha của bà là cụ Nguyễn H. có nhận sang nhượng của cụ Phạm Văn V. cùng ngụ tại địa chỉ trên một thửa đất có diện tích 187m2 chiều rộng 7,5m x chiều dài 25m với số tiền là đồng, nội dung giao dịch này được thể hiện trên giấy viết tay có chữ ký của bên sang nhượng, bên nhận sang nhượng cùng hai người làm chứng là ông Dương Văn Nh., Phạm Văn S. và được lãnh đạo UBND xã ký xác nhận vào ngày 12/10/1991. Sau khi lập hồ sơ thủ tục theo quy định, ngày 11/10/1999 bà L được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GCNQSDĐ với diện tích 187m2 loại đất thổ quả, thuộc thửa 2760, tờ bản đố số 01, tọa lạc tại ấp T, xã huyện C, tỉnh T. Cũng theo hồ sơ kê khai xin cấp GCNQSDĐ của bà L. thể hiện Chiều rộng hai cạnh của thửa đất tiếp giáp với Quốc lộ IA và tiếp giáp với mí gò đất đều là 7,5m, nhưng qua đo đạc thực tế sau khi phát sinh tranh chấp cho thấy, chiều rộng tiếp giáp với Quốc lộ IA là 7,38m; chiều rộng tiếp giáp mí gò đất chỉ còn là 6,72m. Sở dĩ có sự khác biệt về số liệu đo đạc trên thực tế với số liệu trích lục bản đồ vị trí thể hiện trên GCNQSDĐ, là do bà Đoàn Thị N. năm 2004 khi làm nhà ở cạnh thửa đất của bà L. đã lấn chiếm, cụ thể chiều rộng thửa đất tiếp giáp Quốc lộ IA, bị bà N. lấn qua 0,11m với chiều dài 8,8m; chiều rộng tiếp giáp mí gò bị bà N. lấn qua 0,78m với chiều dài 6,95m. Bà L. đề nghị TAND huyện C tuyên buộc cụ V. và bà N. có trách nhiệm giao trả toàn bộ phần diện tích đất đã lấn chiếm gần 7m2. Phía bị đơn là cụ Phạm Văn V. và bà Đoàn Thị N. trình bày Việc cụ V. sang nhượng cho cụ H. tại thời điểm khoảng tháng 5/1991 một thửa đất với giá đồng là đúng sự thật, nhưng diện tích sang nhượng chỉ là 120m2 chiều rộng 6,0m; chiều dài 20,0m, chứ không phải diện tích 187m2 như trong Đơn xin sang nhượng đất, mà phía bà L. cung cấp. Hơn nữa, hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ cho bà L. có dấu hiệu giả chữ ký, vì bản thân cụ V. và bà N. cũng như những thành viên khác trong gia đình, không ai ký tên xác nhận “tứ cận” giáp ranh với phần đất của người kế bên vào hồ sơ kê khai xin cấp GCNQSDĐ của bà L., điều đó dẫn đến việc gia đình bà không hề hay biết việc phía bà L. làm thủ tục đề nghị UBND huyện C cấp GCNQSDĐ, mà cha của bà đã sang nhượng lên đến 187m2. Để có chứng cứ giao nộp cho Tòa án để bảo vệ quan điểm của mình, bà Đoàn Thị N. làm đơn gửi đến Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, yêu cầu trích lục hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. vào năm 1999. Ngày 17/12/2015, Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, ban hành Công văn số 4314/TL-VPĐK trả lời yêu cầu của bà Đoàn Thị N., mà theo đó, tại điểm 2 của Công văn này có viết “ …Căn cứ vào Điều 38 của Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định như sau“việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Do đó, Văn phòng Đăng ký đất đai không thể trích lục hồ sơ của bà Nguyễn Thị L. theo yêu cầu của bà được.”” Vấn đề đặt ra, việc Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, viện dẫn Điều 38 BLDS và cho rằng nếu thực hiện nội dung yêu cầu trích lục hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. là xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của đương sự, nên đã từ chối yêu cầu của bà N. có phù hợp với quy định của pháp luật không? Xoay quanh vấn đề này, hiện có các loại quan điểm sau – Quan điểm thứ nhất Bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, bao gồm những thông tin, tài liệu, hình ảnh về cá nhân, việc làm, tình yêu, gia đình, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân mà người này giữ kín, không muốn để “lộ ra” cho người khác biết. Nói cách khác, bí mật đời tư có thể hiểu là chuyện riêng của người này mà không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…”. Vì thế nên, bất cứ ai thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân người khác, không phân biệt những thông tin, tư liệu ấy đang được cá nhân đó giữ bí mật hay đã được cá nhân đó để lộ ra mà không được sự đồng ý của cá nhân đó đều là xâm phạm bí mật đời tư. Hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. là vấn đề thuộc về quyền riêng tư cá nhân, nên việc Văn phòng Đăng ký đất đai từ chối đáp ứng yêu cầu của bà N. tại Công văn số 4314/TL-VPĐK là có căn cứ. – Quan điểm thứ hai Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu gọi chung là thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận. Mặc dù Điều 38 BLDS không đưa ra khái niệm bí mật đời tư, nhưng theo lẽ thông thường có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân mà cá nhân đó không muốn cho người khác biết. Trong hoàn cảnh pháp luật hiện chưa có quy định rõ ràng về khái niệm và phạm vi “bí mật đời tư ” thì xét ở góc độ nghĩa của từ ngữ theo từ điển tiếng Việt, bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân thông tin, tư liệu… được giữ kín, không công khai, không tiết lộ ra. Còn nếu các thông tin, tư liệu cá nhân đã được công khai, lộ ra thì không còn là bí mật đời tư nữa. Do đó, cần hiểu bí mật đời tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu mà chỉ mỗi cá nhân đó biết và quyết giữ bí mật. Từ cách tiếp cận vấn đề như vậy, những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Sở dĩ, bà N. yêu cầu được cấp trích hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L., là do giữa đôi bên có tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước đó và hiện tại phía bà L. đã được UNND huyện C cấp GCNQSD diện tích đất được sang nhượng. Nhưng theo bà N., hồ sơ xin xác lập chủ quyền diện tích đất được sang nhượng đã có sự giả mạo chữ ký của cụ V. người sang nhượng, hơn nữa, diện tích đất sang nhượng thực tế là 120 m2, nhưng thực tế khi bà L. được cấp GCNQSDĐ lên đến 187 m2, trong khi theo quy định của pháp luật, là người sử dụng đất giáp ranh với đất của bà L., cụ V. hay bà N. phải ký tên xác nhận “tứ cận” – đất không có tranh chấp là mới đúng. Hồ sơ và quy trình, thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định của của pháp luật là công khai. Cụ thể, Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ tái định cư và trình tự thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Thông tư số 20/2010/TT-BTNMT ngày 22/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định bổ sung về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;Thông tư số 16/2010/TT-BTNMT ngày 20/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai;… mà theo đó, với thủ tục cấp GCNQSĐ cho cá nhân trong mọi trường hợp đều được công chức địa chính và UBND cấp xã công bố công khai kết quả kiểm tra về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch,…tại trụ sở UBND cấp xã. Một khi tất cả các thông tin có liên quan về hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ được công bố công khai thì tại trụ sở UBND cấp xã thì rõ ràng không còn là bí mật đời tư của cá nhân đó. Nếu hiểu thu nhập và tài sản hợp pháp của cá nhân có được là “bí mật đời tư”, theo tác giả là hoàn toàn sai lầm, bởi đã là thu nhập hợp pháp thì cớ gì phải giấu giếm, phải che đậy không muốn người khác biết. Mỗi người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCNQSD bao nhiêu thửa đất, loại đất; diện tích sử dụng nhà ở bao nhiêu m2, loại nhà ở,… hoàn toàn không thuộc về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật của gia đình người đó. Hơn nữa, Điều 26a Luật Phòng chống tham nhũng năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2012 có quy định về công khai bản kê khai tài sản, mà theo đó, việc công khai bản kê khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc, như vậy, với đối tượng bắt buộc phải có nghĩa vụ kê khai tài sản theo luật quy định, thì Nhà nước đã xâm phạm “quyền bí mật đời tư” của tất cả họ sao? Cho dù, bà L. không là đối tượng thuộc diện người có nghĩa vụ kê khai tài sản theo Điều 7 Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ, về minh bạch tài sản thu nhập, nhưng tài sản là quyền sử dụng 187 m2 đất bà L. đang là đối tượng của vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, mà TAND huyện C đang thụ lý và cũng theo bị đơn hồ sơ thể hiện việc sang nhượng diện tích đất mà bà L. cung cấp cho cơ quan chức năng là giả mạo, thì lẽ ra cơ quan có chức năng phải tạo điều kiện hơn nữa để bà N. bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là mới đúng. Do đó, việc Văn phòng Đăng ký đất đai từ chối yêu cầu của bà N. bằng việc vận dụng Điều 38 BLDS là thiếu cơ sở pháp lý và không thuyết phục, nếu không muốn nói đó là sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, là sự quan liêu của người có thẩm quyền. Tác giả đồng ý với quan điểm này. “Quyền bí mật đời tư” là quyền nhân thân bất khả xâm phạm của cá nhân. Về cơ bản có thể hiểu rằng quyền bí mật đời tư của cá nhân là quyền được bảo vệ về bí mật đời tư, nói cách khác không ai được quyền xâm phạm đến bí mật đời tư của cá nhân khi chưa được phép. Như vậy, có thể thấy rằng “quyền bí mật đời tư” được xây dựng trên khái niệm “bí mật đời tư”. Muốn xác định được phạm vi của “quyền bí mật đời tư” đòi hỏi chúng ta phải xác định khái niệm về “bí mật đời tư” là gì. Quy định về “quyền bí mật đời tư” đã được đề cập tới ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Theo đó, Hiến pháp 1946 có quy định “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”. Điều này đã cho thấy rằng, từ khi mới thành lập, Nhà nước ta đã quan tâm và bảo vệ cho quyền riêng tư của công dân. Trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau, các bản Hiến pháp của nước ta vẫn giữ quy định về việc bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân với phạm vi bảo vệ ngày càng mở rộng hơn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các bản Hiến pháp này chỉ quy định việc bảo vệ bí mật đời tư của công dân đối với thư tín, điện thoại, điện tín mà thôi, tức là phạm vi quyền bí mật đời tư còn tương đối hẹp. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền bí mật đời tư của cá nhân đã được tiếp cận theo cách khác, mà theo đó, như Điều 21 Hiến pháp năm 2013 mà tác giả đã trích dẫn ở phần trên. Hiến pháp 2013 đã mở rộng hơn rất nhiều đối với quyền bí mật đời tư, theo đó không chỉ bao gồm thư tín, điện thoại, điện tín mà tất cả các vấn đề về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình đều được pháp luật bảo vệ. Tiếp thu quan điểm tiến bộ này, Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, mà theo đó, Điều 38 có quy định về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, như sau “1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định. 4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Tham khảo, quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng “quyền bí mật đời tư” được hầu hết các nước thừa nhận với tên gọi và phạm vi khác nhau. Chẳng hạn BLDS Pháp ghi nhận mọi người đều có quyền được tôn trọng đời tư của mình và quyền riêng tư này được pháp luật bảo vệ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, giống như BLDS Việt Nam, BLDS Pháp không có quy định hướng dẫn cụ thể về khái niệm cũng như phạm vi những quyền riêng tư này như thế nào. Ngày 13/4/1988, Tòa án tối cao Pháp đã có phán quyết giải thích về phạm vi của quyền riêng tư, theo đó thì đời sống riêng tư của một người bao gồm Đời sống tình cảm, bạn bè, gia đình, sinh hoạt hằng ngày, quan điểm chính trị, công việc làm ăn hay tư tưởng tôn giáo và tình trạng sức khỏe. Hiểu một cách chung nhất quyền riêng tư cho phép mọi người không phân biệt giai cấp, độ tuổi hay tài chính chống lại hành vi xâm phạm mà không được sự cho phép của họ. Như vậy, có thể thấy rằng theo BLDS Pháp thì quyền riêng tư của mọi cá nhân là như nhau. Đồng thời phạm vi bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân là rất rộng, bao gồm các thông tin được đưa ra cả tại nơi công cộng lẫn nơi riêng tư của cá nhân. Tuy nhiên, nếu như cá nhân chủ động công bố những thông tin đó thì sẽ không được coi là bí mật đời tư nữa. Hiến pháp Nhật tại Điều 13 ghi nhận rằng công dân có quyền sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân. Đây là quy định làm nền tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về quyền bí mật đời tư như Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà của người khác, nghiêm cấm nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá nhân của người khác. Năm 2003, Nhật Bản ban hành Luật Bảo vệ những thông tin cá nhân, trong đó quy định những thông tin về cá nhân sẽ được bảo vệ nếu thỏa mãn a Liên quan đến đời sống của cá nhân; b Có thể dùng để xác định, phân biệt một công dân. Tòa án Nhật Bản đã giải thích quyền về bí mật đời tư của cá nhân, bao gồm i Quyền không bị công bố thông tin cá nhân nếu không có lý do chính đáng; ii Quyền quyết định đối với thông tin cá nhân. Cũng theo Tòa án Nhật Bản, để xác định có sự vi phạm về quyền bí mật đời tư hay không phải đảm bảo các yêu cầu sau i. Có liên quan đến đời sống riêng tư của cá nhân. ii. Cá nhân đó có mong muốn giữ bí mật. iii. Không phải là thông tin, hiểu biết công cộng. iv. Gây ảnh hưởng nặng nề đối với cá nhân nếu bị xâm phạm. Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng “không nơi nào chúng ta có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”. Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau Quyền riêng tư là các quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá nhân hay công việc của mình hoặc những người trong gia đình bằng các phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố thông tin. Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng nhìn nhận “quyền bí mật đời tư” dưới góc độ bảo vệ cho những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của cá nhân mà người đó có mong muốn được giữ bí mật. Trong trường hợp người đó chủ động công bố thông tin thì sẽ không được coi là bí mật đời tư và sẽ không được pháp luật bảo vệ nếu như những thông tin này được người khác sử dụng[1]. Kiến nghị Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất hai kiến nghị sau Thứ nhất, về nguyên tắc luật, “Quyền bí mật đời tư” là không đồng nhất với khái niệm “Quyền riêng tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì phức tạp, bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen… Có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…. Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái niệm “bí mật đời tư”. Và việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái niệm “đời tư”. Theo quan điểm của tác giả, tính “bí mật” trong khái niệm “bí mật đời tư” chỉ mang tính tương đối. Điều này có nghĩa là, cùng một nội dung vụ việc có tính chất như nhau, đối với người này có thể là bí mật, nhưng đối với người khác thì đây chỉ là một thông tin bình thường, có thể công bố rộng rãi và cá nhân có mong muốn giữ bí mật đối với những thông tin đó không. Do vậy, theo quan điểm đề xuất của tác giả, “Bí mật đời tư” thực chất là những thông tin liên quan đến cuộc sống của một cá nhân nhất định mà cá nhân đó thấy rằng cần thiết và mong muốn giữ bí mật. “Quyền bí mật đời tư” và “quyền được bảo đảm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân” là giống nhau về bản chất, đều là sự bảo vệ đối với những thông tin liên quan đến cuộc sống riêng của cá nhân. Thứ hai, phạm vi những thông tin thuộc về “bí mật đời tư” của mỗi cá nhân. Vấn đề đặt ra, có phải mọi thông tin thuộc về cá nhân mà cá nhân muốn giữ bí mật sẽ trở thành “bí mật đời tư” và được pháp luật bảo vệ. Vấn đề này hiện đang có hai quan điểm sau – Quan điểm thứ nhất cho rằng, những thông tin muốn được coi là “bí mật đời tư” phải là những thông tin hợp pháp. Bởi lẽ, đối với những thông tin trái pháp luật hay đạo đức xã hội thì pháp luật sẽ không bảo vệ, và như vậy sẽ không được coi là “bí mật đời tư” được. – Quan điểm thứ hai, không nên quá cứng nhắc mà nên có sự linh hoạt để áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, trường hợp con đánh bố mẹ, hay chồng hành hạ vợ, thì dù có là vấn đề riêng tư, cá nhân, thì xã hội, các tổ chức đoàn thể địa phương và những người xung quanh cũng không thể không can thiệp và lên tiếng, vì đó là hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, với một trẻ em dưới 14 tuổi mà bị dâm ô hoặc bị người thành niên giao cấu, việc dư luận xã hội lên án đối tượng hiếp dâm, báo chí phanh phui sự việc là đương nhiên, nhưng không vì thế mà làm tổn thương thêm danh dự, nhân phẩm của đứa bé đó, kể cả trường hợp nạn nhân có sự “đồng tình” đi chăng nửa, thì phải xác định được rằng, do sự hạn chế về mặt nhận thức của một đứa trẻ chưa đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, theo quy định tại Điều 116 và Điều 115 BLHS hiện hành, người thực hiện hành vi phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khi xét xử, căn cứ quy định tại ý 2 Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án xét xử kín, nhưng tuyên án công khai. Thực hiện đúng quy định này là cần thiết, nhằm bảo vệ lợi ích cho nạn nhân, vì nó có thể còn liên quan đến lợi ích của họ sau này nữa. Người viết đồng ý với quan điểm này, có nghĩa cần linh động trong việc xác định thông tin nào được cho là “bí mật đời tư”. Có nghĩa là về nguyên tắc thì không phải mọi thông tin về đời sống riêng tư mà cá nhân không muốn công khai sẽ trở thành “bí mật đời tư” mà muốn được pháp luật bảo vệ thì những thông tin này phải hợp pháp. Tuy nhiên, để xác định “tính hợp pháp” này phải căn cứ vào từng trường hợp, hoàn cảnh sự việc cụ thể, mà ưu tiên hàng đầu đặt ra là bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân người trong cuộc. THS. LÊ VĂN SUA NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Quan điểm của chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng đọc tin nhắn của nhau rõ ràng là sự xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Trước hết, xét trên phương diện tình cảm, tập tục của người Việt thì việc vợ chồng xem trộm tin nhắn của nhau là chuyện rất bình thường và vẫn diễn ra hằng ngày ở nhiều gia đình. Quan hệ vợ chồng trong xã hội nước ta không chỉ chịu sự chi phối và điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều tập tục, quan niệm đã hình thành từ lâu đời, nhiều khi còn lấn át pháp luật. Xét trên quan điểm pháp luật, mặc dù vợ chồng là mối quan hệ gắn bó trên nhiều mặt và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên giữa vợ chồng vẫn có sự riêng tư, độc lập nhất định. Khoản 3 Điều 38 bộ luật dân sự có quy định “3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, Luật dân sự đã quy định rõ bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo tuyệt đối trừ trường hợp cá nhân đồng ý hoặc pháp theo quyết định của pháp luật. Điều đó có nghĩa, không ai, kể cả vợ, chồng được phép xâm phạm bí mật đời tư của người khác. Trong quan hệ vợ chồng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp mà người vợ hoặc chồng cần phải có sự riêng tư nhất định. Không thể viện bất kì lý do gì để vợ hoặc chồng xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Hơn nữa, xét trên phương diện tình cảm thì quan hệ vợ chồng sẽ bền vững trên cơ sở tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, việc kiểm tra điện thoại của người khác chỉ càng làm tăng thêm mối bất hoà và sự nghi ngờ trước đó. Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể thấy người vợ trong tình huống trên hoàn toàn có thể kiện người chồng về việc xâm phạm bí mật đời tư, tuy nhiên trên thực tế, do quan niệm, phong tục của người á đông mà những vụ kiện như vậy ở nước ta rất hiếm, thậm chí chưa từng xảy ra. III. Kết luận. Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Thiết nghĩ, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp. 6 trang Chia sẻ lvcdongnoi Lượt xem 7265 Lượt tải 9 Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền bí mật đời tư - Dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênbài tập nhóm dân sự_k33 9 điểm đấy Lời nói đầuTrong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và điều kiện nước ta hiện nay nói riêng, khi mà các giá trị về vật chất của con người ngày càng được thoả mãn đầy đủ hơn thì chúng ta ngày có xu hướng quan tâm đến các giá trị của cá nhân, một trong những giá trị mà con người hướng tới chính là “quyền bí mật đời tư”. Pháp luật xét về tính giai cấp luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, tuy nhiên xét đến cùng vẫn là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng do đó luôn phải chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng. Đáp ứng những yêu cầu khách quan những mong muốn của các cá nhân trong xã hội, pháp luật hiện đại ngày càng ghi nhận và bảo vệ rộng rãi các quyền nhân thân của cá nhân, trong đó có quyền bí mật đời tư. Không nằm ngoài quy luật trên, Pháp luật nước ta cũng ghi nhận quyền cơ bản này của công dân thông qua nội dung của Điều 73 Hiến pháp, Điều 38 Bộ luật dân sự và một số quy định trong các văn bản pháp khác.Việc ghi nhận và bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân là một điểm tiến bộ của pháp luật nước ta, đưa pháp luật ngày càng gần với đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền này của công dân vẫn còn nhiều điều phải bàn. Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong tìm hiểu và làm rõ hơn nữa về lý luận cũng như thực tế việc thực hiện quyền bí mật đời tư hiện nay. Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua một số vụ việc cụ thể trên thực tế chúng tôi mong muốn có được cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về quyền bí mật đời tư của cá nhân. Với kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế do vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đựơc sự đóng góp từ phía thầy cô và các bạn.I. Vài nét về quyền bí mật đời tư của cá nhân.1. “Bí mật đời tư” - quyền cơ bản của mọi cá nhân.Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và một số công ước khác của Liên Hiệp Quốc.Điều 12 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ghi nhận “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín của cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại can thiệp và xâm phạm như vậy”Trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1996, quyền bí mật đời tư được quy định tại điều 17“ ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp hoặc xúc phạm như vậy.” Có thể thấy rằng, bí mật đơi tư là một trong những quyền dân sự cơ bản của cá nhân được thế giới thừa nhận rộng rãi. Việc bảo vệ quyền bí mật đời tư còn đảm bảo cho việc thực hiện một số quyền khác của cá nhân như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể, quyền tự do tín ngưỡng… được đảm bảo triệt để hơn. Xác định rõ tầm quan trọng của quyền bí mật đời tư với cá nhân, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền này của mỗi cá nhân. Điều 73 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đựơc bảo đảm an toàn bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín cảu công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.” Cụ thể hoá quy định này của hiến pháp Bộ luật dân sự 2005 dành riêng điều 38 quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân như sau “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật.Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.Không chỉ luật dân sự, một số ngành luật khác như luật hình sự, luật hôn nhân gia đình, luật báo chí…cũng có những quy định bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. 2. Định nghĩa về “Quyền bí mật đời tư”.Thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, số lượng vụ việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân là không ít, tuy nhiên số vụ việc được giải quyết lại rất hạn chế. Trong các nguyên nhân dẫn tời hiện tượng trên thì việc thiếu một định nghĩa cụ thể trong luật về bí mật đời tư chính là một nguyên nhân chính, điều này khiến việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề liên quan đến bí mật đời tư trở nên hết sức khó khăn do không xác định rõ ràng được những thông tin như thế nào mới là bí mật đời tư và được pháp luật bảo vệ.Như đã nói ở trên, mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định liên quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân song vẫn chưa có một văn bản nào đưa ra được một định nghĩa chính thức về quyền này. Trước hết, xét về mặt ngữ nghĩa “bí mật” là “được giữ kín trong phạm vi một số ít người, không để lộ cho người ngoài biết” hoặc theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì “bí mật” còn được giải thích là “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như vậy, về cơ bản có thể hiểu “bí mật đời tư” là những thông tin, tư liệu…của cá nhân được cá nhân đó giữ kín, không công khai phạm vi “công khai” có thể khác nhau tuỳ từng trường hợp và những thông tin, tư liệu này nếu được công khai thường sẽ gây bất lợi cho bản thân cá nhân đó và những người có liên quan.Tuy nhiên, những “thông tin”, những “tư liệu”… như thế nào mới được coi là bí mật cá nhân và cần được pháp luật bảo vệ. Như chúng đã biết, đời sống cá nhân là một phạm trù rộng bao gồm rất nhiều phương diện, nhiều khía cạnh. Do vậy, không thể coi tất cả các mặt liên quan đến các nhân là bí mật đời tư, việc xác định phạm vi của “bí mật đời tư” có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn pháp luật hiện nay. “Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín, . Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các phương diện “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Trong Luận án tiến sĩ về “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đình Nghị có định nghĩa về khái niệm bí mật đời tư như sau “Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu gọi chung là thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”.Như vậy, có thể thấy hiện nay còn rất nhiều ý kiến khác nhau về cách định nghĩa khái niệm bí mật đời tư, tuy nhiên, theo chúng tôi, dù hiểu thế nào thì khi một cá nhân muốn yêu cầu pháp luật bảo vệ về việc bị xâm phạm bí mật đời tư thì phải chứng minh được rằng bí mật đó là bí mật thuộc về cá nhân người đó và chưa từng được công bố, công khai ở nơi công cộng theo ý muốn của bản thân người đó. Ngoài ra, bí mật đó phải đảm bảo được yêu cầu là không xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác ví dụ thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội….II. Thực tiễn bảo vệ “Quyền bí mật đời tư” tại Việt Nam.1. Báo chí có xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân?Tóm tắt vụ việc như sau Ông Trần Tiến Đức, ngụ tại phường 10, quận Phú Nhuận, Tp HCM được TAND quận phú nhuận xử cho li hôn với vợ của ông là bà vào ngày 15/12/1994. Tháng 10 năm 1996, nhà xuất bản trẻ phối hợp với báo Tuổi trẻ xuất bản cuốn “Kí sự pháp đình”, tác giả là nhà báo Thuỷ Cúc, trong đó có bài “Tổ ấm”. Đây là bài kí sự có nội dung viết về phiên toà li hôn cảu ông Trần Tiến Đức, mặc dù họ tên của nguyên đơn đã được viết tắt là khi cuốn sách được phát hành, một người bạn của ông Đức đọc vànói lại nội dung cho ông Đức biết. Giữa năm 2006 ông Trần Tiến Đức đãkhởi kiện tại tòa án nhân dân quận 3 TP Hồ Chí Minh đối với các đồngbị đơn Nhà xuất bản trẻ, báo Tuổi trẻ và nhà báo Thủy Cúc. Theo nộidung đơn khởi kiện, ông Đức cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tưkhi bài “Tổ ấm” đề cập đến quá khứ của bà vợ cũ của ông vàquyền truy nhận cha cho con của ông, bên cạnh đó nhà báo Thuỷ Cúc cònnêu quan điểm cá nhân xúc phạm đời sống riêng tư của ông Đức… Từ đó,ông Đức đưa ra yêu cầu trong nội dung đơn khởi kiện Cấm tái bản, cấmlưu hành “Tổ ấm”, đăng cải chính xin lỗi trên báo, bồi thường tinhthần bằng tiền theo mức cụ thể như sau tác giả nhà báo Thuỷ Cúc bồithường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng.Phản bác lại những yêu cầu do phía nguyên đơn đưa ra, đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là vô lý, không thể chấp nhận được. Bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm ký sự pháp đình, không bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cũng như bí mật riêng tư của ai – mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải là bí mật đời tư. Thông qua hiện thực khách quan, bài báo đã gửi đến bạn đọc một thông điệp. Ngoài ra bài viết đã được “gọt rũa” cẩn thận, đã viết tắt tên của những người liên quan.Nhà xuất bản Trẻ không đồng ý đăng cải chính trên báo bởi theo Nhà xuất bản trẻ, “bí mật” là những gì không được công khai, mặt khác đây là bài viết dạng ký sự nên tác giả có thể lồng thêm ý kiến cá nhân vào.Đại diện Báo Tuổi Trẻ cũng trình bày Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ và cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm nêu trên nên không liên quan đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện.Về phía nguyên đơn, trong phần tranh luận, ông Đức có đưa ra một số tranh luận đối với đại diện Báo Tuổi Trẻ, nhà báo Thuỷ Cúc. Nội dung tranh luận tập trung vào một số vấn đềThứ nhất, ông Đức cho rằng cuốn “Ký sự pháp đình” có bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm của Báo Tuổi Trẻ vì trên trang bìa của cuốn sách có in logo của Báo Tuổi Trẻ, trong cuốn sách cũng có ghi “Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ phối hợp”. Do đó, đây chính là sự liên kết giữa hai đơn vị này nên cả hai phải liên đới bồi thường.Thứ hai, đối với nhà báo Thuỷ Cúc, mặc dù tên nhân vật trong bài báo đã được viết tắt, nhưng lại đề cập đến công việc và con người của ông, sự đề cập đó không phải đề cao ông mà để mọi người nhận ra ông khi đọc bài viết đó. Thậm chí, bài viết còn vẽ hình biếm hoạ ba đứa con của ông – đó là sự xúc phạm. Ông Đức cũng cho rằng nếu bài viết trong ấn phẩm này tiếp tục được phát hành sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các con ông về sau.Sau khi xét hỏi, tranh luận và nghị án, chiều ngày 20/9/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử nhận định là có hành vi xâm phạm bí mật đời tư của ông Trần Tiến Đức của ba đồng bị đơn là nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Từ đó, Hội đồng xét xử đã quyết định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Trần Tiến Đức, buộc nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phải đăng lời cải chính trên Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ/1 bị đơn; buộc ba đồng bị đơn phải liên đới bồi thường cho ông Đức 1,75 triệu đồng tiền tổn thất về tinh thần Nhà báo Thuỷ Cúc 1 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ 500 nghìn đồng và Báo Tuổi Trẻ 250 nghìn đồng. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng tuyên buộc Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành, không được tái bản cuốn Ký sự pháp đình của nhà báo Thuỷ Cúc có bài viết “Tổ ấm”.Không đồng ý với phán quyết của Toà án cấp sơ thẩm, các đồng bị đơn đã kháng cáo. Lý do kháng cáo được các đồng bị đơn đưa ra Bản án sơ thẩm được tuyên không có căn cứ pháp luật; Hội đồng xét xử đã tự “sáng tác” luật, lạm quyền trong khi xét xử bởi vì pháp luật chưa có định nghĩa thế nào là bí mật đời tư, mặt khác những thông tin được công khai tại phiên tòa không thể xem là “bí mật”. Ngoài ra, tác phẩm “Tổ ấm” của nhà báo Thuỷ Cúc không đề cập cụ thể đến tên của ông Trần Tiến Đức…Với những nhận định tương tự như Toà án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuyên buộc Báo Tuổi Trẻ, NXB Trẻ và nhà báo Thủy Cúc phải đăng lời cải chính, xin lỗi ông Đức trên trang 4 Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ. Đồng thời, Báo Tuổi Trẻ phải bồi thường cho ông Đức đồng; NXB Trẻ bồi thường đồng và nhà báo Thủy Cúc bồi thường 1 triệu đồng. Tuyên cấm lưu hành cuốn ký sự pháp đình có bài “Tổ ấm” khi tái bản.Mặc dù vụ việc đã đựơc giải quyết nhưng xung quanh nó vẫn tồn tại nhiều ý kiến trái ngược về cách giải quyết của toà án. Cá nhân chúng tôi cho rằng cách giải quyết của toà án như vậy là hợp lý và có cơ sở.Thứ nhất, mặc dù Điều 38 Bộ luật dân sự không đưa ra định nghĩa cụ thể về bí mật đời tư, tuy nhiên, như đã phân tích ở phần I của tiểu luận, có thể hiểu “bí mật đời tư” là những thông tin, tư liệu…của cá nhân được cá nhân đó giữ kín, không công khai phạm vi “công khai” có thể khác nhau tuỳ từng trường hợp và những thông tin, tư liệu này nếu được công khai thường sẽ gây bất lợi cho cá nhân có liên quan. Vụ ly hôn của ông là thông tin về cá nhân ông Đức mà bản thân ông không muốn tiết lộ rộng rãi bởi việc tiết lộ đó có thể gây bất lợi cho bản thân ông cũng như gia đình ông. Thứ hai, mặc dù tên nhân vật đã được viết tắt nhưng thông qua nội dung và những tình tiết trong câu truyện, người đọc quen biết ông đức hoặc sinh sống gần đó có thể dễ dàng nhận ra đó là ông Đức, bằng chứng là việc một người bạn đã đọc bài báo, phát hiện ra đó là ông Đức và chỉ cho ông biết. Hơn nữa, theo ông Đức thì nội dung bài viết đã có sự xúc phạm ông và các con ông. Mặt khác, theo Điều 13 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005 “Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước,bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹtục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đờitư của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ”. Như vậy, việc công khai thông tin ở toà không thể coi là căn cứ để cho rằng những thông tin đó là không còn mang tính “bí mật” và cần được giữ kín. Hơn nữa, những thông tin liên quan đến vụ việc li hôn của ông Đức với bà là những thông tin riêng giữa hai vợ chồng, không xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác do vậy không thể “bị” công bố khi chưa được sự đồng ý của bản thân những người liên quan hoặc quyết định theo pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Nghị định số 51/2002/NĐ – CP ngày 26/4/2002 của Chính Phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Báo chí cũng quy định “Không đựơc đăng, phát tin bài ảnh hưởng xấu đến đời tư, công bố tài liệu thư riêng khi chưa được sự đồng ý của ngời viết thư, người nhận thư hoặc người chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó”. Như vậy, việc nhà báo Thuỷ Cúc đưa những thông tin về cá nhân ông Đức cần phải được sự cho phép của bản thân ông.Trên đây là quan điểm của chúng tôi về cách giải quyết của toà án trong vụ kiện của ông Thực tế xét xử cho thấy vụ kiện của ông Đức chỉ là một trường hợp hiếm hoi. Việc báo chí đưa những thông tin có tính chất xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân không phải là chuyện hiếm thấy, thậm chí phổ biến. Tuy nhiên, việc pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể và người dân cũng ý thức chưa đầy đủ về quyền lợi của mình nên chưa có những biện pháp bảo vệ thích đáng với quyền quan trọng này. Vụ việc trên cũng chính là sự biểu hiện sự xung đột giữa quyền bí mật đời tư với quyền tự do thông tin, tự do báo chí được quy định tại Điều 69 Hiến pháp và một số văn bản pháp luật khác.2. Về việc Mobifone làm lộ thông tin khách hàng.Tóm tắt vụ việc như sau Chị Mai Thị H trú tại 47, NTX, phường Hiệp Hoà Bắc, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng khiếu nại về việc Mobifone làm lộ bí mật khách hàng khiến gia đình chị tan vỡ. Chị H sử dụng dịch vụ MobiCard được 2 năm. Ngày 21/11/2005, chồng chị mang về những bảng in chi tiết số điện thoại của chị từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2005. Trong đó, chồng chị gạch rõ từng ngày chị thực hiện bao nhiêu cuộc gọi, gọi vào những số nào, giờ nào? Chồng chị còn truy ra hơn 20 số điện thoại của những người đàn ông gọi cho chị, gọi điện đến từng người tra hỏi tên, tuổi, địa chỉ... Cuối cùng, chị H phải kí vào đơn ly dị mặc dù không hề mong muốnChị H đã tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của MobiFone tại Đà Nẵng. Nhân viên ở đây cho rằng có thể chồng chị đã biết mã pin điện thoại của chị và vào trang web của MobiFone để in bảng chi tiết. Tuy nhiên, chị H khẳng định là chưa bao giờ dùng máy của mình để xin mã pin và chị cũng chưa bao giờ vào trang web của MobiFone để đăng ký! Chị H cho biết sẽ khởi kiện MobiFone về vụ làm lộ thông tin này. Chiều 23/5/2006, ông Trịnh Hồng Kim - Giám đốc MobiFone khu vực 3 cho biết "Đối với thuê bao MobiCard, việc thực hiện tính cước online, quản lý các cuộc gọi chi tiết của khách hàng được tập trung tại Hà Nội. Chúng tôi không quản lý nên không có chuyện bí mật các cuộc gọi của khách hàng tại Đà Nẵng bị lộ từ phía chúng tôi".Bất bình trước lời giải thích của Mobifone, chị H đã làm đơn khởi kiện công ty này tại Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Theo nội dung đơn kiện, chị H cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi mạng Mobifone tiết lộ nhật ký cuộc gọi của chị cho chồng chị, dẫn đến gia đình chị tan vỡ và yêu cầu phía Mobifone phải bồi thường và xin lỗi chị.Ngày 5/1/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử xét thấy có hành vi xâm phạm bí mật đời tư chị H của mạng di động Mobifone, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình chị, vi phạm Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền bí mật đời tư, Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị Mai Thị H, yêu cầu mạng di động Mobifone bồi thường cho chị H số tiền là 3 triệu tám trăm năm mươi VNĐ. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng đưa ra lời cảnh cáo với mạng di động Mobifone không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không có sự cho phép và yêu cầu đơn vị này xin lỗi chị H về hành vi của mình. Theo quan điểm của chúng tôi, cách giải quyết của toà án nhân dân quận Liên Chiểu là hợp lí và có căn cứ pháp luật. Khoản 3 Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định “Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”. Bản kê chi tiết danh sách gọi chính là một trong những hình thức “thông tin điện tử khác của cá nhân” do vậy cũng được pháp luật bảo vệ. Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002 về bảo đảm bí mật thông tin có quy định tại khoản 1 như sau “Bí mật đối với thông tin riêng chuyển qua mạng bưu chính, mạng viễn thông của mọi tổ chức, cá nhân được bảo đảm theo quy định của pháp luật. Việc giữ bí mật thông tin bằng kỹ thuật mật mã trong bưu chính, viễn thông được thực hiện theo quy định của pháp luật về cơ yếu”.Tại điểm c khoản 2 Điều 42 Pháp lệnh trên cũng quy định Người sử dụng dịch vụ viễn thông “Được bảo đảm bí mật thông tin riêng theo quy định của pháp luật”. Thông tin về "Chi tiết cuộc gọi gốc", sơ đồ di chuyển của các thuê bao di động vị trí của các thuê bao tại các thời điểm và các bảng kê cuộc gọi của khách hàng được liệt vào danh sách thông tin mật. Những thông tin này không được cung cấp cho bất kỳ ai ngoài chủ thuê bao hoặc một số trường hợp được chủ thuê bao uỷ quyền hoặc trừ khi cơ quan điều tra yêu cầu với những lý do chính đáng. Như vậy, Mobifone không có quyền cung cấp bản kê chi tiết các cuộc gọi của chị H cho bất kì ai, kể cả chồng chị H khi không có sự đồng ý của chị. Thực tế hiện nay cho thấy, việc quản lý, giữ bí mật thông tin cá nhân của khách hàng tại các công ty viễn thông còn rất lỏng lẻo. Thậm chí, còn có cả tình trạng nhân viên một số mạng di động đọc các tin nhắn có nội dung "lạ" của các khách hàng, sau đó in ra và photo truyền nhau đọc tại công ty. Tuy đây chỉ là trò vui đối với các nhân viên này nhưng xét trên phương diện pháp luật, đây là sự vi phạm nghiêm trọng quy định bảo mật thông tin của khách hàng. Vụ việc trên cùng cách giải quyết của toà án cũng góp một tiếng nói đến các công ty viễn thông trong việc bảo mật các thông tin khách hàng.3. Có bí mật đời tư giữa vợ và chồng?Tóm tắt vụ việc “Một tòa án ở TP HCM vừa giải quyết vụ ly hôn khá lạ. Anh chồng có trong tay nhiều tin nhắn mùi mẫn từ điện thoại di động của vợ gửi cho "người hàng xóm" ở nước ngoài” Trong vụ việc này, không xét đến việc toà án có chấp nhận chứng cứ do anh chồng đưa ra để giải quyết ly hôn hay không, vấn đề đặt ra là việc anh chồng xem trộm tin nhắn của vợ có phải là hành động xâm phạm bí mật đời tư?Xung quanh vấn đề này có một số ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng việc chồng đọc lén thư tín, ghi âm điện thoại của vợ là can thiệp thô bạo vào đời tư của người khác, có ý kiến lại cho rằng Hai vợ chồng "tuy hai mà một" nên có quyền được biết những gì xảy ra với người kia do vậy không có sự xâm phạm bí mật đời tư khi người này đọc tin nhắn của người kia.Quan điểm của chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng đọc tin nhắn của nhau rõ ràng là sự xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Trước hết, xét trên phương diện tình cảm, tập tục của người Việt thì việc vợ chồng xem trộm tin nhắn của nhau là chuyện rất bình thường và vẫn diễn ra hằng ngày ở nhiều gia đình. Quan hệ vợ chồng trong xã hội nước ta không chỉ chịu sự chi phối và điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều tập tục, quan niệm đã hình thành từ lâu đời, nhiều khi còn lấn át pháp luật.Xét trên quan điểm pháp luật, mặc dù vợ chồng là mối quan hệ gắn bó trên nhiều mặt và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên giữa vợ chồng vẫn có sự riêng tư, độc lập nhất định. Khoản 3 Điều 38 bộ luật dân sự có quy định “3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật.Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, Luật dân sự đã quy định rõ bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo tuyệt đối trừ trường hợp cá nhân đồng ý hoặc pháp theo quyết định của pháp luật. Điều đó có nghĩa, không ai, kể cả vợ, chồng được phép xâm phạm bí mật đời tư của người khác. Trong quan hệ vợ chồng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp mà người vợ hoặc chồng cần phải có sự riêng tư nhất định. Không thể viện bất kì lý do gì để vợ hoặc chồng xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Hơn nữa, xét trên phương diện tình cảm thì quan hệ vợ chồng sẽ bền vững trên cơ sở tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, việc kiểm tra điện thoại của người khác chỉ càng làm tăng thêm mối bất hoà và sự nghi ngờ trước đó.Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể thấy người vợ trong tình huống trên hoàn toàn có thể kiện người chồng về việc xâm phạm bí mật đời tư, tuy nhiên trên thực tế, do quan niệm, phong tục của người á đông mà những vụ kiện như vậy ở nước ta rất hiếm, thậm chí chưa từng xảy ra. III. Kết luận.Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Thiết nghĩ, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp. Các file đính kèm theo tài liệu nàyQuyền bí mật đời tư - Dân
Luật Hòa Bình có bài viết chia sẻ về "Quyền bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật đời tư" . Rất mong được sự góp ý. Xin cảm ơn. - “bí mật đời tư” là một cụm từ Hán - Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không muốn ai biết. “Tư” ở đây có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Điều 34 Bộ Luật Dân Sự BLDS 1995 chỉ ghi nhận ngắn gọn 1. Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu huỷ thư tín, điện tín, nghe trộm điện thoại hoặc có hành vi khác nhằm ngăn chặn, cản trở đường liên lạc của người khác. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật quy định và phải có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân. Như vậy, theo Điều luật này, “bí mật đời tư” được giới hạn trong phạm vi “thư tín, điện tín, điện thoại”, “đường liên lạc”. Điều 38 BLDS 2005 quy định quyền bí mật đời tư trong phạm vi rộng hơn, tức bổ sung thêm “các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân”, còn nội dung khác vẫn giữ nguyên theo tinh thần BLDS 1995. Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín… Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền bí mật đời tư như sau "1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền". Mặc dù Điều 38 BLDS không đưa ra khái niệm bí mật đời tư, nhưng theo lẽ thông thường có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân mà cá nhân đó không muốn cho người khác biết. Báo chí có quyền đưa tin, nhưng với những thông tin về bí mật đời tư của cá nhân thì việc đưa tin phải được sự đồng ý của cá nhân đó. Ở đây cần phân biệt sự công khai thông tin tại Toà án giữa một vụ án dân sự, hôn nhân gia đình với một vụ án hình sự. Trong vụ án hình sự, những thông tin đó liên quan đến người phạm tội, họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu hình phạt do Nhà nước qui định nên những thông tin này có thể được công khai để nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Đối với những thông tin trong vụ án ly hôn, đó là thông tin liên quan đến bản thân đương sự, không ảnh hưởng gì đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hay lợi ích của người khác nên các đương sự có quyền không công khai những thông tin này. Trường hợp này cần phải hiểu là công khai thông tin tại Toà án không đồng nghĩa với việc mất tính bảo mật của thông tin đó. Việc công khai thông tin tại Toà án khi các đương sự ly hôn là căn cứ để Toà án xem xét, quyết định cho ly hôn, cấp dưỡng, nuôi con, nhưng thông tin đó nếu được công khai ra dư luận có thể sẽ tạo sự bất lợi trong cuộc sống, sinh hoạt của người trong cuộc. Ví dụ anh A xin ly hôn với vợ là chị B, tại phiên toà, anh thừa nhận rằng quan hệ sinh lý giữa hai vợ chồng không hoà hợp anh bị mắc bệnh… nên Toà án đã đồng ý cho ly hôn. Sau đó, những lời trình bày của anh A tại phiên toà được công khai, dư luận đàm tiếu…- trường hợp này cũng cần xác định rằng mặc dù thông tin đó được công khai tại phiên toà nhưng vẫn được coi là bí mật đời tư. Về nguyên tắc luật, “Quyền bí mật đời tư” là không đồng nhất với khái niệm “Quyền riêng tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì phức tạp, bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen… Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…. Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái niệm “bí mật đời tư”. Và việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái niệm “đời tư”.
PHẦN MỞ ĐÂU Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư cá nhân Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái “danh” của mỗi con người, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh Khi nói đến quyền nhân thân người ta thường quan tâm đến những quyền cụ thể như quyền đối với họ, tên; quyền đối với hình ảnh của mình; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền được bảo vệ bí mật đời tư Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định chưa nhiều, trong cuộc sống thường ngày, tên họ, hình ảnh, đời tư của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; người bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thường thì người xâm phạm chỉ bị đền bù tượng trưng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho người đó. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trường hợp người bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhưng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của người đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm nhân thân của người khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thường bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử thì riêng mức bồi thường thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lương tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa người với người – giữa người vi phạm với người bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nước đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm chưa đáng kể thì có thể bị Nhà nước xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì người thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. Nói tóm lại, quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài “ Bí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực tiễn. ” NỘI DUNG I. Lý luận chung về “Bí mật đời tư” 1. Khái niệm “Bí mật đời tư” 2. Quyền bí mật đời tư 3. Một số quy định về “Bí mật đời tư” trên thế giới II. Thực tiễn về vấn đề “Bí mật đời tư” ở Việt Nam 1. Vấn đề “Bí mật đời tư” trong hệ thống pháp luật hiện hành Chế định về thông tin cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam Những “kẽ hở” của Luật Báo chí 2. Các vụ việc liên quan đến “ Bí mật đời tư” Báo chí xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân? Mobifone làm lộ thông tin khách hàng. Bí mật đời tư của một diễn viên KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 trang Chia sẻ lvcdongnoi Lượt xem 3114 Lượt tải 8 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bí mật đời tư - Vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênPHẦN MỞ ĐÂU Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm … Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư cá nhân … Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái “danh” của mỗi con người, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh …Khi nói đến quyền nhân thân người ta thường quan tâm đến những quyền cụ thể như quyền đối với họ, tên; quyền đối với hình ảnh của mình; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền được bảo vệ bí mật đời tư … Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định chưa nhiều, trong cuộc sống thường ngày, tên họ, hình ảnh, đời tư của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; người bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thường thì người xâm phạm chỉ bị đền bù tượng trưng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho người đó. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trường hợp người bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhưng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của người đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm nhân thân của người khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thường bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử … thì riêng mức bồi thường thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lương tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa người với người – giữa người vi phạm với người bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nước đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm chưa đáng kể thì có thể bị Nhà nước xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì người thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. Nói tóm lại, quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài “ Bí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực tiễn. ” NỘI DUNG I. Lý luận chung về “Bí mật đời tư” 1. Khái niệm “Bí mật đời tư” Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng về phạm vi của khái niệm “bí mật đời tư”. Điều 34 Bộ Luật Dân Sự 1995 chỉ ghi nhận ngắn gọn “1- Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2- Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3- Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu huỷ thư tín, điện tín, nghe trộm điện thoại hoặc có hành vi khác nhằm ngăn chặn, cản trở đường liên lạc của người khác. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật quy định và phải có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân”. Như vậy, theo Điều luật này, bí mật đời tư được giới hạn trong phạm vi “thư tín, điện tín, điện thoại”, “đường liên lạc”. Điều 38 BLDS 2005 quy định quyền bí mật đời tư trong phạm vi rộng hơn, tức bổ sung thêm “các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân”, còn nội dung khác vẫn giữ nguyên theo tinh thần BLDS 1995 “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Như vậy, Bộ luật dân sự 2005 cũng không đưa ra khái niệm “bí mật đời tư”. Đây chính là một trong những khó khăn khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến “bí mật đời tư”. Hiện nay, cũng chưa có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm “bí mật đời tư” rõ ràng. Khái niệm “bí mật đời tư” là một cụm từ Hán - Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không có ai biết. “Tư” có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. “Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, “bí mật đời tư” có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín, Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các phương diện “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Trong Luận án tiến sĩ về “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đình Nghị có định nghĩa về khái niệm bí mật đời tư như sau “Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu gọi chung là thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”. Như vậy, quan điểm này cũng chỉ ra rằng bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá nhân, chỉ có thể mình họ hoặc một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy thì cũng chưa bao quát được nội hàm của khái niệm bí mật đời tư, bởi lẽ nếu hiểu bí mật đời tư là những thông tin “chưa từng công bố cho bất kỳ ai” thì cũng không đúng. Có trường hợp thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người tiếp nhận thông tin phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin thì thông tin đó vẫn được coi là “bí mật đời tư”. 2. Quyền bí mật đời tư Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Việc bảo vệ quyền bí mật đời tư còn đảm bảo cho việc thực hiện một số quyền khác của cá nhân như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể, quyền tự do tín ngưỡng… được đảm bảo triệt để hơn. Xác định rõ tầm quan trọng của quyền bí mật đời tư với cá nhân, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền này của mỗi cá nhân. Điều 73 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đựơc bảo đảm an toàn bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín cảu công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.” Cụ thể hoá quy định này của hiến pháp Bộ luật dân sự 2005 dành riêng điều 38 quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân. Không chỉ luật dân sự, một số ngành luật khác như luật hình sự, luật hôn nhân gia đình, luật báo chí…cũng có những quy định bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. 3. Một số quy định về “Bí mật đời tư” trên thế giới Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và một số công ước khác của Liên Hiệp Quốc. Điều 12 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ghi nhận “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín của cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại can thiệp và xâm phạm như vậy” Trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1996, quyền bí mật đời tư được quy định tại điều 17 “ ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. 2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp hoặc xúc phạm như vậy.” II. Thực tiễn về vấn đề “Bí mật đời tư” ở Việt Nam 1. Vấn đề “Bí mật đời tư” trong hệ thống pháp luật hiện hành Chế định về thông tin cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam Cho đến nay, Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh các hành vi liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân một cách hệ thống. Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập và sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước đã ngày càng nhận thức rõ và quan tâm hơn đến vấn đề quan trọng này. Điều này được thể hiện trong các chỉ thị của Đảng và Nhà nước, các văn bản luật được ban hành trong thời gian gần đây. Tại Chỉ thị số 27/CT-TƯ ngày 16 tháng 10 năm 2008 về lãnh đạo thực hiện cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã yêu cầu “chú ý bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật, nhất là bảo mật thông tin cá nhân…”. Xem xét một cách có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy các nội dung điều chỉnh vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được quy định ngày càng rõ hơn từ cấp độ luật đến các văn bản hướng dẫn luật. Đã có quy định các hình thức xử phạt, chế tài cụ thể từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền đến xử lý hình sự đối với các trường hợp vi phạm nặng. Ở mức độ văn bản pháp luật dân sự, Bộ Luật dân sự được Quốc hội thông qua tháng 6 năm 2005 đã đưa ra một số quy định nguyên tắc về bảo vệ thông tin cá nhân tại Điều 31 “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh” và Điều 38 “Quyền bí mật đời tư”. Điều 31 quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý và nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Điều 38 quy định một số nội dung về quyền bí mật đời tư. Theo đó, quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh các giao dịch điện tử là Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2005 đã dành một điều Điều 46 để quy định chung về bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Công nghệ thông tin, quy định tổng thể về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Luật Công nghệ thông tin đã có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm đối với việc thu thập, xử lý, sử dụng, lưu trữ thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng tại các Điều 21, Điều 22. Điều 72 quy định các vấn đề liên quan đến việc bảo đảm bí mật đối với thông tin riêng hợp pháp của tổ chức, cá nhân trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường mạng. Ngày 10 tháng 4 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2007/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Nghị định này đã đưa ra hình thức phạt, mức phạt đối với một số hành vi vi phạm các quy định về thu thập, xử lý, sử dụng, lưu trữ, trao đổi, bảo vệ thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng. Cùng với việc nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và sự phát triển vô cùng nhanh chóng của công nghệ, nhiều loại hình tội phạm mới ra đời, trong đó đáng chú ý là các tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Trước tình hình đó, các cơ quan quản lý nhà nước đã kiến nghị sửa đổi Bộ Luật hình sự do Quốc hội ban hành năm 1999. Dự kiến trong nửa đầu năm 2009, Quốc hội sẽ thông qua Bộ Luật hình sự sửa đổi. Tại dự thảo Bộ Luật hình sự sửa đổi có bổ sung thêm Điều 226 “Tội đưa trái pháp luật thông tin lên mạng viễn thông, mạng máy tính hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng viễn thông, mạng máy tính”. Đây sẽ là căn cứ để xử lý hình sự một số hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng. Song song với việc ban hành các quy định chi tiết điều chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn, an ninh thông tin, các cơ quan quản lý nhà nước cũng đã quan tâm tới việc nâng cao năng lực phòng chống tội phạm công nghệ cao. Trước tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao có xu hướng gia tăng, năm 2005 Bộ Công An đã thành lập Phòng Chống tội phạm công nghệ cao trực thuộc Cục Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế C15. Trong thời gian vừa qua, Phòng Chống tội phạm công nghệ cao đã phối hợp hiệu quả với các cơ quan hữu quan điều tra, triệt phá nhiều vụ tội phạm công nghệ cao, trong đó có các vụ việc liên quan tới việc ăn cắp và sử dụng thông tin cá nhân bất hợp pháp. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, yêu cầu cấp thiết phải có một tổ chức quy mô lớn, có năng lực, trình độ chuyên môn cao và đủ quyền hạn để đấu tranh với các loại hình tội phạm mới này. Nhận thức được vấn đề này, trong thời gian vừa qua, theo sự chỉ đạo của Chính phủ Bộ Công an đang triển khai các công tác chuẩn bị để có thể thành lập Cục Phòng chống tội phạm công nghệ cao trong năm 2009. Những “kẽ hở” của Luật Báo chí Theo luật dân sự Muốn sử dụng ảnh cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghị định 51 hướng dẫn thi hành Luật Báo chí thì quy định “Không được đăng, phát ảnh cá nhân mà không có chú thích rõ ràng làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các buổi xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có giải thích thế nào là “vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng”. Đưa ảnh một kẻ trộm, một quan chức tham ô, một giám đốc cố ý làm trái... để mọi người cảnh giác, để răn đe, phòng ngừa chung có phải là vì lợi ích công cộng, vì lợi ích của nhà nước? Buộc báo chí phải xin phép những người này thì thật là vô lý nhưng nếu không xin phép, họ có thể viện dẫn luật dân sự để kiện báo. Với hướng dẫn của Nghị định 51, liệu có thể hiểu là báo chí được đăng tất, miễn sao có chú thích rõ ràng để không làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó? Riêng ảnh ở các phiên xử công khai, báo có được đăng ảnh đặc tả bị cáo hay chỉ được đăng ảnh quang cảnh phiên tòa? Ảnh đương sự trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính thì sao? Khái niệm “trọng án” hết sức mù mờ, không có trong luật hình sự. Vậy đối với bị cáo thường thì sao? Tháng 7-2005, tại một tòa án cấp quận ở Chí Minh, thư ký và chủ tọa không cho phóng viên chụp ảnh bị cáo. Báo Pháp Luật Chín Minh phản ánh và mở diễn đàn. Có hai luồng ý kiến khác nhau. Một luồng cho rằng tòa xử công khai, phóng viên có quyền chụp ảnh và đưa lên báo. Bên còn lại cho rằng dù họ là bị cáo, ra tòa cũng phải tôn trọng quyền nhân thân của họ. Việc sử dụng có thể gây tổn hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị cáo. Sau nhiều ý kiến tranh cãi trên, lãnh đạo Tòa án Chí Minh tạm giải thích Được phép chụp ảnh tại tòa nhưng sử dụng thế nào là do báo, báo chịu trách nhiệm. Lãnh đạo Tòa án tối cao thì nói có thể phải phân làm hai loại loại bị cáo đồng ý cho chụp thì mới được chụp, loại phục vụ việc tuyên truyền cho nhân dân thì dù bị cáo không đồng ý vẫn được chụp. Vị này nói sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa-Thông tin ra thông tư liên tịch để hướng dẫn việc tác nghiệp của báo chí tại các phiên tòa, trong đó có chuyện chụp ảnh, sử dụng ảnh nhưng đến nay vẫn chưa có. Báo chí không được tiết lộ bí mật nhà nước. Nhưng bí mật nhà nước bao gồm những gì, ít ai trong chúng ta nắm tường tận, đầy đủ. Hiện nay có ít nhất 46 văn bản quy định danh mục bí mật nhà nước của các bô, ngành ban hành trong các năm 2002-2004. Nhưng đọc vào thấy hết sức mênh mông. Báo chí cũng không được xâm phạm bí mật đời tư. Có nghĩa là muốn thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân thì phải được người đó đồng ý. Nhưng chưa có một định nghĩa rõ ràng thế nào là bí mật đời tư, phạm vi bao gồm những gì cũng không rõ. 2. Các vụ việc liên quan đến “ Bí mật đời tư” Báo chí xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân? Ngày 14/9/2006, Tòa án nhân dân Quận 3 đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ kiện xâm phạm bí mật đời tư giữa nguyên đơn ông Trần Tiến Đức đối với các đồng bị đơn là Nhà xuất bản Trẻ, Báo Tuổi Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc. Sau gần 10 năm quyển sách được phát hành, ông Đức, một nhân vật liên quan đến bài viết đã khởi kiện đòi bồi thường. Nội dung vụ việc như sau Ông Trần Tiến Đức, ngụ tại phường 10, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh được Toà án nhân dân Quận Phú Nhuận xử cho ly hôn với vợ của ông là bà vào ngày 15 tháng 12 năm 1994. Tháng 10 năm 1996, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Báo Tuổi Trẻ xuất bản cuốn “Ký sự pháp đình”, tác giả là nhà báo Thuỷ Cúc, trong đó có bài “Tổ ấm”. Đây là bài ký sự, có nội dung viết về phiên toà ly hôn của ông Trần Tiến Đức, mặc dù họ tên của nguyên đơn đã được viết tắt là Sau khi cuốn sách được phát hành, một người bạn của ông Đức đọc và nói lại nội dung cho ông Đức biết. Giữa năm 2006, ông Trần Tiến Đức đã khởi kiện tại Toà án nhân dân Quận 3, TP Hồ Chí Minh đối với các đồng bị đơn Nhà xuất bản Trẻ, Báo Tuổi Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc. Theo nội dung đơn khởi kiện, ông Đức cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi bài “Tổ ấm” đề cập đến quá khứ của bà vợ cũ của ông và quyền truy nhận cha cho con của ông, bên cạnh đó nhà báo Thuỷ Cúc còn nêu quan điểm cá nhân xúc phạm đời sống riêng tư của ông Đức… Từ đó, ông Đức đưa ra yêu cầu trong nội dung đơn khởi kiện Cấm tái bản, cấm lưu hành “Tổ ấm”, đăng cải chính xin lỗi trên báo, bồi thường tinh thần bằng tiền theo mức cụ thể như sau tác giả nhà báo Thuỷ Cúc bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng. Phản bác lại những yêu cầu do phía nguyên đơn đưa ra, đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là vô lý, không thể chấp nhận được. Bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm ký sự pháp đình, không bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cũng như bí mật riêng tư của ai – mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải là bí mật đời tư. Thông qua hiện thực khách quan, bài báo đã gửi đến bạn đọc một thông điệp. Ngoài ra bài viết đã được “gọt rũa” cẩn thận, đã viết tắt tên của những người liên quan. Nhà xuất bản Trẻ không đồng ý đăng cải chính trên báo bởi theo Nhà xuất bản trẻ, “bí mật” là những gì không được công khai, mặt khác đây là bài viết dạng ký sự nên tác giả có thể lồng thêm ý kiến cá nhân vào. Đại diện Báo Tuổi Trẻ cũng trình bày Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ và cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm nêu trên nên không liên quan đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện. Mặc dù bản án đã được tuyên, thế nhưng, qua phiên toà này, vấn đề pháp lý đặt ra những thông tin công khai tại phiên toà dân sự có còn được xem là bí mật đời tư; phạm trù bí mật đời tư được pháp luật khái quát như thế nào và ở mức độ nào thì không được công bố...? Theo Hội đồng xét xử, pháp luật chưa có quy định rõ bí mật đời tư là gì, bí mật đời tư đến mức nào thì được pháp luật bảo vệ và cấm tiết lộ... Bí mật đời tư của công dân trong những vụ án ly hôn được xét xử công khai tại tòa chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật. Ông Đức cho rằng cuốn sách kể lại và bình luận về diễn biến phiên tòa xét xử vụ ly hôn của vợ chồng ông là can thiệp phi pháp vào chuyện hôn nhân của gia đình ông, xúc phạm bí mật đời tư. Từ đó, ông yêu cầu Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành và không được tái bản quyển sách này; Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ cùng đăng cải chính trên Báo SGGP, Báo Nhân dân, Báo Tuổi trẻ 3 kỳ. Đồng thời, nhà báo Thủy Cúc, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ liên đới bồi thường cho ông 10 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần Nhà báo Thuỷ Cúc bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng. Đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là vô lý không thể chấp nhận. Bài viết "Tổ ấm" là ấn phẩm ký sự pháp đình, không nhằm bôi nhọ danh dự xâm phạm đời tư của ai. Mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải những bí mật đời tư. Thông qua một hiện thực khách quan của cuộc sống, người viết báo gửi đến người đọc một thông điệp. Bài viết không vi phạm thuần phong mỹ tục, điều cấm của luật. Người viết cũng đã cẩn trọng viết tắt tên những người có liên quan. Đại diện Báo Tuổi Trẻ trình bày Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm trên nên không liên quan gì đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện. Nhà xuất bản Trẻ cũng không đồng ý đăng cải chính trên báo. Theo Nhà xuất bản Trẻ bí mật là những gì không được công khai. Những thông tin đã công bố công khai tại phiên toà thì không còn được xem là bí mật nữa. Hơn nữa đây là bài ký sự nên tác giả có thể lồng ý kiến quan điểm cá nhân vào. Trong phần tranh luận, ông Đức cho rằng cuốn ký sự pháp đình có bài viết "Tổ ấm" chính là ấn phẩm của Báo Tuổi Trẻ vì trên trang bìa của cuốn sách có in logo của Báo Tuổi Trẻ. Trong quyển sách cũng có ghi " Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ phối hợp". Theo ông Đức đó là sự liên kết giữa hai đơn vị này, nên cả hai phải liên đới bồi thường. Ông Đức cũng cho rằng, bài viết viết tắt tên nhưng lại đề cập đến công việc, con người ông đó không phải là sự đề cao như phía bị đơn trình bày mà là để mọi người nhận ra ông. Thậm chí bài viết còn vẽ hình biếm hoạ 3 đứa con của ông đó là sự xúc phạm. Hơn nữa nếu bài viết tiếp tục được phát hành sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các con ông về sau. Trong khi đó, Luật sư Nguyễn Văn Hậu và Nguyễn Thị Thuý Hường bào chữa cho Báo Tuổi Trẻ cho rằng phiên toà ly hôn công khai nên những thông tin diễn biến tại phiên toà không còn là bí mật đời tư. Ngay sau thời điểm diễn ra phiên toà một số báo chí đã viết bài đưa tin về vụ kiện, còn bài "Tổ ấm" mãi đến năm 1996 mới phát hành sau khi bản án ly hôn đã có hiệu lực. Nếu nói tiết lộ bí mật thì những báo phát hành trước mới là người tiết lộ. Ngoài ra, nếu nói xúc phạm đời tư thì người bị xúc phạm là bà T ông Đức không có quyền khởi kiện thay nếu không có uỷ quyền của bà T. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã quyết định nghị án kéo dài và tuyên án vào sáng 20/9/2006. Tuy nhiên, sau khi trở lại làm việc, Hội đồng xét xử đã quyết định quay trở lại phần xét hỏi và tranh luận lại và đến buổi chiều mới tuyên án được. Theo nhận định của Hội đồng xét xử, bí mật đời tư của công dân được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định rõ bí mật đời tư là gì, bí mật đời tư đến mức nào thì được pháp luật bảo vệ và cấm tiết lộ. Do vậy, trong vụ án này đã có sự xung đột pháp luật giữa quyền công dân bí mật đời tư và quyền tự do báo chí... Bí mật đời tư của công dân trong những vụ án ly hôn được xét xử công khai tại tòa chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật. Mặc dù nhận định là thế nhưng Hội đồng xét xử lại tự đưa ra khái niệm về bí mật đời tư bí mật đời tư là những quyền riêng tư của con người, trong đó bí mật là điều giữ kín không để lộ ra cho người khác biết, riêng tư là những vấn đề thuộc cá nhân người đó để áp dụng vào vụ án. Theo Hội đồng xét xử, trong bài ký sự "Tổ ấm", nhà báo Thủy Cúc đã mô tả khá chi tiết toàn bộ diễn biến phiên tòa ngày 15/12/1994 có một số chi tiết tiết lộ bí mật đời tư của ông Đức. Bên cạnh đó, nhà báo Thủy Cúc còn có những bình luận xâm phạm đến danh dự ông Đức. Phía Báo Tuổi Trẻ đã có chủ trương cùng Nhà xuất bản Trẻ cho xuất bản ký sự pháp đình có bài viết "Tổ ấm"; để cho Nhà xuất bản Trẻ sử dụng logo Báo Tuổi Trẻ in lên cuốn ký sự pháp đình mà không hề có động thái phản đối nào. Chính động thái không làm gì của Báo Tuổi Trẻ đã làm tăng giá trị cuốn ký sự pháp đình có bài "Tổ ấm", tạo điều kiện cho cuốn sách này phát hành tốt hơn. Do vậy cũng phải liên đới chịu trách nhiệm với Nhà xuất bản Trẻ và nhà báo Thủy Cúc. Từ đó, Hội đồng xét xử đã tuyên buộc nhà báo Thủy Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phải đăng lời cải chính trên Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ/1bị đơn; buộc 3 đồng bị đơn phải liên đới bồi thường cho ông Đức 1,75 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần nhà báo Thủy Cúc 1 triệu, Nhà xuất bản Trẻ 500 nghìn và Báo Tuổi Trẻ 250 nghìn đồng. Tòa cũng tuyên buộc Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành và không được tái bản cuốn ký sự pháp đình của nhà báo Thủy Cúc có bài viết "Tổ ấm". Thực tế xét xử cho thấy vụ kiện của ông Đức chỉ là một trường hợp hiếm hoi. Việc báo chí đưa những thông tin có tính chất xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân không phải là chuyện hiếm thấy, thậm chí phổ biến. Tuy nhiên, việc pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể và người dân cũng ý thức chưa đầy đủ về quyền lợi của mình nên chưa có những biện pháp bảo vệ thích đáng với quyền quan trọng này. Vụ việc trên cũng chính là sự biểu hiện sự xung đột giữa quyền bí mật đời tư với quyền tự do thông tin, tự do báo chí được quy định tại Điều 69 Hiến pháp và một số văn bản pháp luật khác. Mobifone làm lộ thông tin khách hàng. Tóm tắt vụ việc như sau Chị Mai Thị H trú tại 47, NTX, phường Hiệp Hoà Bắc, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng khiếu nại về việc Mobifone làm lộ bí mật khách hàng khiến gia đình chị tan vỡ. Chị H sử dụng dịch vụ MobiCard được 2 năm. Ngày 21/11/2005, chồng chị mang về những bảng in chi tiết số điện thoại của chị từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2005. Trong đó, chồng chị gạch rõ từng ngày chị thực hiện bao nhiêu cuộc gọi, gọi vào những số nào, giờ nào? Chồng chị còn truy ra hơn 20 số điện thoại của những người đàn ông gọi cho chị, gọi điện đến từng người tra hỏi tên, tuổi, địa chỉ... Cuối cùng, chị H phải kí vào đơn ly dị mặc dù không hề mong muốn Chị H đã tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của MobiFone tại Đà Nẵng. Nhân viên ở đây cho rằng có thể chồng chị đã biết mã pin điện thoại của chị và vào trang web của MobiFone để in bảng chi tiết. Tuy nhiên, chị H khẳng định là chưa bao giờ dùng máy của mình để xin mã pin và chị cũng chưa bao giờ vào trang web của MobiFone để đăng ký! Chị H cho biết sẽ khởi kiện MobiFone về vụ làm lộ thông tin này. Chiều 23/5/2006, ông Trịnh Hồng Kim - Giám đốc MobiFone khu vực 3 cho biết "Đối với thuê bao MobiCard, việc thực hiện tính cước online, quản lý các cuộc gọi chi tiết của khách hàng được tập trung tại Hà Nội. Chúng tôi không quản lý nên không có chuyện bí mật các cuộc gọi của khách hàng tại Đà Nẵng bị lộ từ phía chúng tôi". Bất bình trước lời giải thích của Mobifone, chị H đã làm đơn khởi kiện công ty này tại Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Theo nội dung đơn kiện, chị H cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi mạng Mobifone tiết lộ nhật ký cuộc gọi của chị cho chồng chị, dẫn đến gia đình chị tan vỡ và yêu cầu phía Mobifone phải bồi thường và xin lỗi chị. Ngày 5/1/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử xét thấy có hành vi xâm phạm bí mật đời tư chị H của mạng di động Mobifone, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình chị, vi phạm Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền bí mật đời tư, Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị Mai Thị H, yêu cầu mạng di động Mobifone bồi thường cho chị H số tiền là 3 triệu tám trăm năm mươi VNĐ. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng đưa ra lời cảnh cáo với mạng di động Mobifone không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không có sự cho phép và yêu cầu đơn vị này xin lỗi chị H về hành vi của mình. Thực tế hiện nay cho thấy, việc quản lý, giữ bí mật thông tin cá nhân của khách hàng tại các công ty viễn thông còn rất lỏng lẻo. Thậm chí, còn có cả tình trạng nhân viên một số mạng di động đọc các tin nhắn có nội dung "lạ" của các khách hàng, sau đó in ra và photo truyền nhau đọc tại công ty. Tuy đây chỉ là trò vui đối với các nhân viên này nhưng xét trên phương diện pháp luật, đây là sự vi phạm nghiêm trọng quy định bảo mật thông tin của khách hàng. Bí mật đời tư của một diễn viên Sáng ngày 9/6/2008, Tòa án nhân dân Hà Nội chính thức ra quyết định xét xử kín vụ truyền bá đoạn phim sex Hoàng Thuỳ Linh. Viện kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội cáo buộc bốn bị cáo có hành vi tàng trữ, vận chuyển, biên tập đoạn phim sex bao gồm - Nguyễn Hữu Tài sinh năm 1984, trú tại phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học FPT-Arena. - Vũ Thị Thùy Linh sinh năm 1986, trú tại ngõ Linh Quang, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học Dân lập Thăng Long. - Võ Thanh Hiệp sinh năm 1982, trú tại phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học FPT. - Nguyễn Thu Linh sinh năm 1986, trú tại phường Giảng Võ, quận Ba Đình, là học viên Trung tâm Đào tạo thời trang London, Hà Nội. Cả bốn bị cáo đều bị truy tố về tội "truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy" theo quy định tại Điều 253, Khoản 2, điểm b, d – Bộ luật hình sự. Theo cáo trạng, Hoàng Thùy Linh là diễn viên tham gia đóng phim “Nhật ký Vàng Anh” phát trên VTV3 - Đài Truyền hình Việt Nam và Vũ Hoàng Việt có quan hệ tình cảm thân thiết. Ngày 5/7/2007, Linh và Việt quan hệ tình dục, tự ghi hình bằng điện thoại di động của Linh tại nhà Việt. Sau đó, Việt đã lưu hai đoạn phim trên vào máy tính cá nhân. Còn Linh lưu vào điện thoại di động để xem và đã xóa. Thông qua các mối quan hệ xã hội, 2 đoạn phim trong máy tính của Việt đã rơi vào tay 4 bị cáo nêu trên. Có đoạn phim sex trong tay, Nguyễn Hữu Tài biên tập, đánh thêm dòng chữ Love vào phía dưới bên trái của đoạn phim để những người muốn truy cập vào Internet đều dễ dàng xem được đoạn phim sex “Vàng Anh” theo cách thông thường. Khoảng 1h ngày 16/10/2007, Nguyễn Hữu Tài đã phát tán đoạn phim sex “Vàng Anh” do Tài biên tập lên mạng Internet tại một số trang web. Còn Võ Thanh Hiệp, Nguyễn Thu Linh và Vũ Thị Thùy Linh sau khi nhận được đoạn phim sex “Vàng Anh” do Tài biên tập đã lại tiếp tục phát tán trên mạng Internet đoạn phim sex với thời lượng 16 phút 40 giây. Sau 1h ngày 16/10/2007, việc phát tán đoạn phim sex giữa Hoàng Thùy Linh và Vũ Hoàng Việt đã tăng lên cấp số nhân. Đỉnh điểm trong ngày 16/10/2007, trang của Nguyễn Hữu Tài có sự hỗ trợ các địa chỉ email của Võ Thanh Hiệp, Vũ Thị Thùy Linh và Nguyễn Thu Linh đã có số người truy cập lên tới người. Con số này tiếp tục tăng với tốc độ chóng mặt trong các ngày tiếp theo và gây nên 1 làn sóng dư luận xã hội bất bình kéo dài trong nhiều tuần. Hội đồng xét xử xác định việc truyền bá này là vi phạm pháp luật, trái truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục văn hóa dân tộc, tác động tiêu cực đến xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Sau khi xem xét những tình tiết giảm nhẹ như cả 4 bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử đã tuyên án tù treo cho cả 4 bị cáo. Cụ thể mức án như sau Nguyễn Hữu Tài 30 tháng tù treo; Võ Thanh Hiệp 24 tháng tù treo; Vũ Thị Thùy Linh 24 tháng tù treo; Nguyễn Thu Linh 20 tháng tù treo. Trong trường hợp cụ thể này, đây là một diễn viên được nhiều người biết đến. Hậu quả về tinh thần và vật chất đối với cô là rất lớn. Sau sự việc xảy ra, những tập phim tiếp theo do diễn viên này thủ vai phải dừng lại. Cũng có thể, rất lâu nữa, cô diễn viên này mới được mời đóng phim hay làm MC... Như vậy thiệt hại về vật chất đối với cô là rất lớn. Trong Bộ Luật Dân sự có quy định rõ ràng về quyền được bảo vệ danh dự nhân phẩm; quyền được bí mật về đời tư; quyền được bí mật về hình ảnh. Khi các quyền trên bị xâm phạm thì trong Bộ Luật Hình sự cũng quy định vào Điều 121 "Tội làm nhục người khác”. KẾT LUẬN Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Vì vậy, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007. 2. Lê Đình Nghị chủ biên, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009. 3. Luật giao dịch điện tử năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành. 4. Nghị định của Chính phủ số 57/2006/NĐ-CP ngày 9/6/2006 về thương mại điện tử. 5. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành 6. TS. Lê Đình Nghị, Bàn về khái niệm quyền bí mật đời tư, Trường Đại học Luật Hà Nội, 7. TS. Lê Đình Nghị, Xung quanh một vụ kiện về việc xâm phạm bí mật đời tư, Trường Đại học Luật Hà Nội, 8. TS. Lê Đình Nghị, “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu nàyBí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực
Từ khi Luật An ninh mạng 2018 có hiệu lực, dư luận ngày càng quan tâm đến quy định pháp luật về việc tiết lộ bí mật đời tư của người khác trên mạng xã hội mà không được cho phép sẽ bị xử lý như thế nào? Bí mật đời tư có thể hiểu là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Trách nhiệm pháp lý khi tiết lộ bí mật đời tư của người khác trên MHX ảnh minh họa Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ thông qua nhiều quy định trong các ngành luật khác nhau và trong các Điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như + Hiến pháp 2013 quy định Điều 21. 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác. + Bộ luật Dân sự 2015 Điều 38. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình 1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định. 4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Khoản 1 Điều 17 Luật An ninh mạng 2018 quy định 1. Hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng bao gồm a Chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; b Cố ý xóa, làm hư hỏng, thất lạc, thay đổi thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư được truyền đưa, lưu trữ trên không gian mạng; c Cố ý thay đổi, hủy bỏ hoặc làm vô hiệu hóa biện pháp kỹ thuật được xây dựng, áp dụng để bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư; d Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trái quy định của pháp luật; …. Như vậy, khi có một chủ thể thực hiện hành vi tiết lộ thông tin cá nhân người khác mà không được sự đồng ý thì đó là hành vi trái quy định pháp luật. Đối với hành vi này, tùy thuộc và mức độ hành vi, phương thức thực hiện, những hệ lụy của hành vi tác động đến người bị xâm phạm mà sẽ xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý áp dụng cho chủ thể vi phạm đó. + Đối với trách nhiệm dân sự Khi bị xâm phạm, chủ thể bị xâm phạm có quyền yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi của mình và áp dụng các biện pháp dân sự đối với người thực hiện hành vi vi phạm như sau Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình; Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ; Buộc bồi thường thiệt hại; Yêu cầu khác theo quy định của luật. + Đối với trách nhiệm hành chính Khi có đủ căn cứ về hành vi vi phạm thì sẽ áp dụng biện pháp hành chính quy định tại Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử như sau Điều 101. Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội 1. Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau a Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; b Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc; c Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; d Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc; đ Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; e Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm; g Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; h Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm. 2. Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. 3. Biện pháp khắc phục hậu quả Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này. Tùy vào mức độ hành vi mà mức phạt sẽ khác nhau. Mức phạt tối đa cho hành vi này có thể lên đến đồng và áp dụng thêm các biện pháp khắc phục hậu quả. + Đối với trách nhiệm hình sự Trường hợp người vi phạm đã chiếm đoạt thông tin sau đó phát tán lên mạng xã hội gây ảnh hưởng đến uy tín nhân phẩm của người khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, Điều 159 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm a Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào; b Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông; c Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật; d Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật; đ Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Phạm tội 02 lần trở lên; d Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; đ Làm nạn nhân tự sát. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Long Bình Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
bí mật đời tư